Người bị tiêu diệt sinh sống đâu? Hàm Tử là một xã trực thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, toàn quốc. Xã Hàm Tử tất cả tổng diện tích kha khá nhỏ dại là 4,65 km². Dân số của xã năm 1999 là 6143 người, tỷ lệ dân sinh đạt 1.321 tín đồ / km². Toàn làng phân thành 14/09/2022 - 08:17. A A. Theo dõi trên. PNO - Ông Huỳnh Văn Nén qua đời lúc 8g ngày 13/9 tại một bệnh viện ở Bà Rịa - Vũng Tàu. Gia đình đã đưa thi thể ông về thị trấn Tân Minh, huyện Hàm Tân (Bình Thuận) để mai táng. "Người tù thế kỷ" Huỳnh Văn Nén sẽ nhận hơn 10 tỷ Năm 2009, Lý Quí Trung được phong hàm Giáo sư tại ĐH Griffith, trở tɦàɴh ɴgườι châu Á ƌầυ tiên và trẻ nhất được nhận danh hiệu tại ngôi trường này. Năm 2016 ông tiếp tục được trường đại học Western Sydney University phong hàm Giáo sư Danh dự. Quảng Ninh đang dần hiện thực hóa khát vọng chứa đựng trong nội hàm tên gọi: "Quảng" là rộng lớn, "Ninh" là yên vui, bền vững. Với tư duy phát triển dài hạn, một mô hình quản trị bền vững và đội ngũ lãnh đạo có tầm, dám quyết, dám làm, chắc chắn tỉnh sẽ Tổng số vàng mà Rim Ri Linh nhập trái phép vào Việt Nam trị giá 17 tỉ đồng, là loại vàng 24K, hàm lượng vàng trong mẫu từ 98,5% đến 99,99% HOTLINE: 0903.343.439 - HOTLINE Phát hành: 0819.123.127 - Đặt mua báo Fast Money. Tất cả Lớp 12 Lớp 11 Lớp 10 Lớp 9 Lớp 8 Lớp 7 Lớp 6 Lớp 5 Lớp 4 Lớp 3 Lớp 2 Lớp 1 Trong tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” có câu “Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô –Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”. Thông tin trên có gì chưa đúng? Đô bị giết, Ô Mã Nhi bị bắt Đô bị bắt ở Chương Dương Mã Nhi bị giết ở Hàm Mã Nhi bị bắt ở Hàm Tử Tìm hiểu thêm về hai câu cửa hàm tử bắt sống toa đô sông Bạch đằng giết tươi ô mãTìm hiểu những trận chiến đó Các câu “Lưu Cung tham công nên thất bại – Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong – Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô – Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã” được dùng để thể hiện hành động kể. Đúng hay sai? A. Đúng B. Sai Vậy nênTriệu Tiết thích lớn phải tiêu vongSông Bạch Đằng giết tươi Ô đang xem Cửa hàm tử bắt sống toa đô A. Nghị luận + miêu tả B. Nghị luận + tự tự C. Miêu tả + tự sự D. Nghị luận + thuyết minh. Vậy nên“Lưu Cung tham công nên thất bại,Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,Sông Bạch Đằng giết tươi Ô xưa xem xétChứng cớ còn nghi.”Từ nội dung của văn bản trên, em hãy viết một đoạn văn khoảng 10 - 12 câu trình bày suy nghĩ của em về ý thức tự hào, tự tôn dân tộc. Tham khảoÔng đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù"Lưu Cung tham công nên thất bại,Triệu Tiết thích lớn phải tiêu Hàm Tử bắt sống Toa Đô,Sông Bạch Đằng giết tươi Ô xưa xem xét,Chứng cớ còn ghi".Những tướng của nhà Tống, nhà Nguyên đều bị các tướng giỏi của ta đánh cho thất bại. Chúng vì "tham công", "thích lớn" nên phải chịu hậu quả nặng nề. Các sự kiện ấy còn được nhân dân ta lưu lại trong sử sách để muôn đời ghi nhớ. Các phép đối, so sánh ngang hàng các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phương Bắc cùng phép liệt kê và giọng điệu hào hùng, trang nghiêm ở đoạn thứ nhất của bài cáo đã thể hiện nổi bật tư tưởng nhân nghĩa của tác giả. Đúng 0 Bình luận 0 tham khảoLưu Cung tham công nên thất bạiTriệu Tiết thích lớn phải tiêu vongCửa Hàm tử bắt sống Toa ĐôSông Bạch Đằng giết tươi Ô MãViệc xưa xem xétchứng cứ còn ghi. Đây là một đất nước có nhân nghĩa, có một nền văn hiến hết sức lâu đời và nhờ lấy “nhân nghĩa” làm triết lí sống nên mới có được nền văn hiến lâu đời đến như vậy, mới đánh thắng được bọn xâm lược phương Bắc, những kẻ không có chút “nhân nghĩa” đó. Hơn nữa, qua phần một của bài cáo, ta còn cảm nhận được tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với đất nước Ông hết sức tự hào về non sông này và ông đã thể hiện niềm yêu nước thật mãnh liệt. Tấm lòng ấy chắc chắn sẽ không bao giờ phai nhạt theo năm tháng và thời gian Đúng 0 Bình luận 0 Cho nên Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết chí lớn phải vong thân; Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét. Chứng cứ còn ghi. cho mình hỏi bài thơ trên vi pham phương chăm hội thoại nào ?? Lớp 9 Ngữ văn Hướng dẫn soạn bài Các phương châm hội thoại 1 0 Gửi Hủy đoạn thơ không vi phạm nhé bạn.....nó chỉ nói đến phương châm hội thoại về chất nêu các dẫn chứng có thật trong lịch sử Đúng 0 Bình luận 2 Cho nên Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết chí lớn phải vong thân; Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét. Chứng cứ còn ghi. vi phạm phương chăm hội thoại nao zạy các bạn ??? Lớp 9 Ngữ văn Văn bản ngữ văn 9 1 0 Gửi Hủy phương châm cách thức hay sao đó bn Đúng 0 Bình luận 0 Câu 28 Với chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, quân ta đã bắt sống tướng nào của quân Nguyên?A. Toa Đô. B. Thoát Hoan. C. Hốt Tất Liệt. D. Ô Mã 29 Nhà Trần khi thực hiện kế sách "vườn không nhà trống" không nhằm mục đích nào sau đây?A. Tránh sức mạnh ban đầu của quân Mông CổB. Khoét sâu vào điểm yếu của quân Mông CổC. Củng cố lực lượng chờ phản côngD. Đánh nhanh thắng nhanhCâu 30 Trong xã hội thời Trần tầng lớp thấp kém nhất làA. Nông dân. B. Thợ thủ công. C. Nô tì, nông nô. D. Thương 31 Tình hình Phật giáo dưới thời Trần như thế nào?A. Vẫn phát triển nhưng không bằng thời Thời Trần Phật giáo trở thành quốc Phật giáo suy yếu nhanh Nhà Trần cấm truyền bá đạo giúp với Lớp 7 Lịch sử Bài 21. Ôn tập chương IV 4 0 Gửi Hủy Câu 28 Với chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, quân ta đã bắt sống tướng nào của quân Nguyên?A. Toa Đô. B. Thoát Hoan. C. Hốt Tất Liệt. D. Ô Mã 29 Nhà Trần khi thực hiện kế sách "vườn không nhà trống" không nhằm mục đích nào sau đây?A. Tránh sức mạnh ban đầu của quân Mông CổB. Khoét sâu vào điểm yếu của quân Mông CổC. Củng cố lực lượng chờ phản côngD. Đánh nhanh thắng nhanhCâu 30 Trong xã hội thời Trần tầng lớp thấp kém nhất làA. Nông dân. B. Thợ thủ công. C. Nô tì, nông nô. D. Thương 31 Tình hình Phật giáo dưới thời Trần như thế nào?A. Vẫn phát triển nhưng không bằng thời Thời Trần Phật giáo trở thành quốc Phật giáo suy yếu nhanh chóng. Đúng 2 Bình luận 1 tham khảo bài làm ạCâu 28 Với chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, quân ta đã bắt sống tướng nào của quân Nguyên?A. Toa Đô. B. Thoát Hoan. C. Hốt Tất Liệt. D. Ô Mã 29 Nhà Trần khi thực hiện kế sách "vườn không nhà trống" không nhằm mục đích nào sau đây?A. Tránh sức mạnh ban đầu của quân Mông CổB. Khoét sâu vào điểm yếu của quân Mông CổC. Củng cố lực lượng chờ phản côngD. Đánh nhanh thắng nhanhCâu 30 Trong xã hội thời Trần tầng lớp thấp kém nhất làA. Nông dân. B. Thợ thủ công. C. Nô tì, nông nô. D. Thương 31 Tình hình Phật giáo dưới thời Trần như thế nào?A. Vẫn phát triển nhưng không bằng thời Thời Trần Phật giáo trở thành quốc Phật giáo suy yếu nhanh Nhà Trần cấm truyền bá đạo Phật. Đúng 1 Bình luận 1 Câu 28 Với chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, quân ta đã bắt sống tướng nào của quân Nguyên?A. Toa Đô. B. Thoát Hoan. C. Hốt Tất Liệt. D. Ô Mã 29 Nhà Trần khi thực hiện kế sách "vườn không nhà trống" không nhằm mục đích nào sau đây?A. Tránh sức mạnh ban đầu của quân Mông CổB. Khoét sâu vào điểm yếu của quân Mông CổC. Củng cố lực lượng chờ phản côngD. Đánh nhanh thắng nhanhCâu 30 Trong xã hội thời Trần tầng lớp thấp kém nhất làA. Nông dân. B. Thợ thủ công. C. Nô tì, nông nô. D. Thương 31 Tình hình Phật giáo dưới thời Trần như thế nào?A. Vẫn phát triển nhưng không bằng thời Thời Trần Phật giáo trở thành quốc Phật giáo suy yếu nhanh Nhà Trần cấm truyền bá đạo Phật. Đúng 1 Bình luận 0 Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu…Như nước Đại Việt ta từ trước,Vốn xưng nền văn hiến đã sông bờ cõi đã chia,Phong tục Bắc Nam cũng Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một mạnh yếu từng lúc khác nhau,Song hào kiệt đời nào cũng nênLưu Cung tham công nên thất bại,Triệu Tiết thích lớn phải tiêu Hàm Tử bắt sống Toa Đô,Sông Bạch Đằng giết tươi Ô xưa xem xét,Trích Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi1. Trong đoạn trích, Nguyễn Trãi đã đưa ra những cơ sở nào để khẳng định nền độc lập, chủ quyền của nước ta? Nêu nhận xét của em về những cơ sở Tìm và phân tích hiệu quả của các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn trích?3. Bày tỏ cảm nghĩ của em về đoạn văn trên học sinh có thể gạch ý Lớp 10 Ngữ văn 0 0 Gửi Hủy Lớp học trực tuyến KHTN 7- Cô Quyên, cô Hương Toán 7- Thầy Dương Khoá học trên OLM hoặc Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết Cái văn Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân, Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo. Duy ngã Đại Việt chi quốc, Thực vi văn hiến chi bang. Sơn xuyên chi phong vực ký thù, Nam bắc chi phong tục diệc dị. Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,[1] Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương. Tuy cường nhược thì hữu bất đồng, Nhi hào kiệt thế vị thường phạp. Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại, Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong. Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan, Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.[2] Kê chư vãng cổ, Quyết hữu minh trưng. Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà, Trí sử nhân tâm chi oán bạn. Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân; Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc. Hân thương sinh ư ngược diệm, Hãm xích tử ư họa khanh. Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng; Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên. Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức; Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di. Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa, Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải. Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh, Điễn vật chức thúy cầm chi võng la. Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh, Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở. Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha; Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ. Châu lý chi chinh dao trọng khốn, Lư diêm chi trữ trục giai không. Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô, Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác. Thần dân chi sở cộng phẫn, Thiên địa chi sở bất dung. Dư Phấn tích Lam Sơn, Thê thân hoang dã. Niệm thế thù khởi khả cộng đái, Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh. Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên, Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật. Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư, Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý. Đồ hồi chi chí Ngộ mị bất vong. Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì, Chính tặc thế phương trương chi nhật. Nại dĩ Nhân tài thu diệp, Tuấn kiệt thần tinh. Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân, Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ. Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông; Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả. Nhiên kỳ Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương, Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch. Phẫn hung đồ chi vị diệt, Niệm quốc bộ chi tao truân. Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần, Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ. Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm, Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan. Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập; Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm. Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị; Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ. Tốt năng Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn, Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo. Bồ Đằng chi đình khu điện xế, Trà Lân chi trúc phá khôi phi. Sĩ khí dĩ chi ích tăng, Quân thanh dĩ chi đại chấn. Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách, Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh. Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu; Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương. Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý; Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên. Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ; Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi. Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần, Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ. Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong; Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất. Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự, Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô. Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân, Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ. Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm; Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần. Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến, Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai. Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong, Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực. Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã; Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn. Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu, Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ. Ngã toại nghênh nhận nhi giải, Bỉ tự đảo qua tương công. Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi, Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt. Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ, Thân mệnh trảo nha chi thần. Ẩm tượng nhi hà thủy càn, Ma đao nhi sơn thạch khuyết. Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn, Tái cổ nhi điểu tán quân kinh. Quyết hội nghĩ ư băng đê, Chấn cương phong ư cảo diệp. Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản, Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm. Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ, Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy. Phong vân vị chi biến sắc, Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang. Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ; Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng đại bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân. Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết; Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng. Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại, Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng. Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ; Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm. Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán; Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh. Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành; Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức. Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn, Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn. Xã tắc dĩ chi điện an, Sơn xuyên dĩ chi cải quán. Càn khôn ký bĩ nhi phục thái, Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh. Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ, Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ. Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã. Ô hô! Nhất nhung đại định, ngật thành vô cạnh chi công; Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo. Bá cáo hà nhĩ, Hàm sử văn tri. Thay trời hành hóa, hoàng thượng truyền rằng. Từng nghe Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt thời nào cũng có. Cho nên Lưu Cung tham công nên thất bại, Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong, Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét, Chứng cớ còn ghi. Vừa rồi Nhân họ Hồ chính sự phiền hà, Để trong nước lòng dân oán hận. Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa, Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế, Gây thù kết oán trải mấy mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả đất trời, Nặng thuế khóa sạch không đầm núi. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc. Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng, Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt. Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng. Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ; Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề những nổi phu phen, Tan tác cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất dung tha, Ai bảo thần dân chịu được? Ta đây Núi Lam sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh, Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, Chính lúc quân thù đang mạnh. Lại ngặt vì Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu, Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, Nơi duy ác hiếm người bàn bạc, Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông, Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả. Thế mà Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi. Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối. Phần vì giận quân thù ngang dọc, Phần vì lo vận nước khó khăn, Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, Lúc Khôi Huyện quân không một đội. Trời thử lòng trao cho mệnh lớn Ta gắng trí khắc phục gian nan. Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào. Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh, Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều. Trọn hay Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay. Sĩ khí đã hăng Quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía, Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân. Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại, Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về. Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng. Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng. Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt, Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công. Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan. Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác, Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian. Bởi thế Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang. Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn. Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau Lại thêm quân bốn mặt vây thành Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc Sĩ tốt kén người hùng hổ Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận, sạch không kình ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ. Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội, Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi, Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật! Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân. Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen. Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp, Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Càn khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu Muôn thuở nền thái bình vững chắc Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ; Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng, Nên công oanh liệt ngàn năm Bốn phương biển cả thanh bình, Ban chiếu duy tân khắp chốn. Xa gần bá cáo, Ai nấy đều hay.

cửa hàm tử bắt sống toa đô