Bộ đề kiểm tra học kì môn Ngữ văn khối 11. Đọc hiểu bài thơ Chợ Tết, chứng minh nhận định :“Thương vợ là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú” ĐỀ THI BÁN KỲ I MÔN: VĂN- LỚP 11. Thời gian làm bài: 60 phút ,Năm học: 2016 – 2017 Fast Money. Nguyễn Thanh Đoàn Văn Cừ 1913-2004 là nhà thơ mới tiền phong, thuộc thế hệ của Anh Thơ 1921-2005. Bàng Bá Lân 1912-1988 theo khuynh hướng tả thực realism. Là nhà giáo, nhà thơ Đoàn Văn Cừ tham gia phong trào Việt Minh từ sau Cách mạng tháng Tám nhập ngũ vào bộ đội, tham gia Hội đồng Nhân dân và hoạt động văn nghệ. Tác phẩm Thôn ca I 1944, Thơ lửa 1947, Việt Nam huy hoàng 1948, Quân dân Nam Định anh dũng chiến đấu 1953, Trần Hưng Đạo, anh hùng dân tộc 1958, Thôn ca II 1960, Dọc đường xuân 1979, Đường về quê mẹ 1987, Tuyển tập Đoàn Văn Cừ 1992. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và được Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật 2001. Đoàn Văn Cừ – Ảnh Internet Tôi nhớ lại, thuở nhỏ khi còn học Sơ đẳng ở trường làng Tân Quới, tôi đã có dịp làm quen và chép kỹ vào tập những bài thơ tả cảnh ngày Tết và lễ hội ở làng quê của thi sĩ Đoàn Văn Cừ trong các sách Tập đọc Tiểu học. Vốn bẩm tính yêu thơ, trong những ngày nghỉ học, tôi thường ra sau vườn nhà có bóng cây mát mẻ, leo lên ngồi vắt võng trên cành măng cụt, và ê a thích thú đọc thuộc lòng những bài thơ hay đã học. Trong không khí trong lành miền quê, hiu hiu cơn gió nhẹ, văng vẳng từ xa tiếng chim rừng véo von lảnh lót, những bài thơ Trường học làng tôi của Nguyễn Bính, các bài Chợ Tết, Đám hội… của nhà thơ Đoàn Văn Cừ… tôi nghêu ngao đọc say sưa sảng khoái mà như không còn biết gì đến không gian ngoại vật chung quanh. Những thầy dạy tiểu học tận tụy của tôi thuở ấy như thầy Nguyễn Văn Quế bút danh Văn Quê – một nhà thơ, cũng như ba tôi, một lão nông mộc mạc suốt năm chân lấm tay bùn, cũng là người yêu thơ ca và làm thơ. Tất cả những người ấy đã cơ hồ đã dọn đường cho tôi lân la, sớm đến với khu vườn văn học. Riêng thơ của Đoàn Văn Cừ đã tạo cho tôi một ấn tượng là nội dung lành mạnh, lạc quan và nghệ thuật điêu luyện, giàu nhạc tính, và lời thơ đầy màu sắc nên người đọc dễ cảm thụ và dễ nhớ. Từ lúc phong trào thơ mới ra đời 1932, một số lớn nhà thơ có thiên hướng lãng mạn trữ tình, thường ca ngợi tình yêu đôi lứa như Xuân Diệu 1916-1985, Lưu Trọng Lư 1912-1991, ?… hoặc lòng yêu kháng chiến và đất nước như Tố Hữu 1920-2002, Nguyễn Đình Thi 1924-2003, Nguyễn Bính 1918-1966, Quang Dũng 1021-1988… Cùng một khuynh hướng sáng tác về chủ đề quê hương như cảnh thiên nhiên, sinh hoạt ở nông thôn như Anh Thơ, Bàng Bá Lân… đặc biệt, Đoàn Văn Cừ đã đi theo một con đường riêng là hay sáng tác về cảnh lễ hội ở làng quê. Bài thơ mới viết theo lối thơ mới 8 chữ Chợ Tết là một tiêu biểu. Cả bài thơ gồm có 44 câu trong đó nhà thơ – với thị quan nhạy bén và cảm nhận tinh tế của một nghệ sĩ hội họa, đã vẽ ra trước mắt người đọc quang cảnh đi chợ Tết ở một làng quê ở miền Bắc một bức tranh quê về cảnh chợ Tết phấp phới sắc màu ngày xuân tươi thắm, vô cùng sinh động và được bố cục rất chặt chẽ và kinh điển bằng đủ loại vần cước vận, yêu vận và liên vận. Khung cảnh phiên chợ quê – Ảnh Internet Bằng thái độ và cảm quan của người thưởng ngoạn nghệ thuật, ta dễ nhận ra trước tiên ở bài thơ Chợ Tết là không gian toàn cảnh của bức tranh về phiên chợ ngày xuân là con người – chủ thể trung tâm của xã hội! Trong khổ 1 câu 1-15. Tác giả muốn nói lên Trong cảnh bình minh, từng đoàn người đi chợ Tết, từ các nẻo đường quê, nhộn nhịp đổ về chợ, hiện diện đủ những khuôn mặt tươi vui rạng rỡ từ những thằng bé lon xon chạy theo mẹ, đến cụ già lom khom với chiếc gậy tre rồi những cô gái áo thắm, lòng phơi phới nở hoa, gánh đủ gà, lợn, và cả con bò, cùng lũ lượt kéo về… phiên chợ mộc cách triền miên. Đón tiếp những con người hăm hở như chứa chan nhựa sống đó là cái không gian bao la của trời mây, hùng vĩ của núi rừng và cảnh nhà cửa nhà san sát thể hiện sự sống mãnh liệt và niềm hy vọng đang vươn tới Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi? Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh? Trên con đường viền trắng mép đồi xanh/ Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết? Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc/ Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon/ Vài cụ già chống gậy bước lom khom/ Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ/ Thằng em bé ép đầu bên yếm mẹ/ Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu/ Con bò vàng ngộ nghĩnh chạy theo sau/ Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa/ Tia nắng tía nhảy hoài trên ruộng lúa/ Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh/ Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh. Phải là người có bộ óc quan sát kỹ lưỡng, tài dùng chữ ghép giàu âm thanh, từ lóng tượng thanh, tượng hình vô cùng tinh tế, chọn vần thích đáng tranh-xanh vần bằng/ Tết – biếc vần trắc, cộng với nghệ thuật nhân hóa đặc biệt bén nhạy, Đoàn Văn Cừ mới biến được những sự vật vô tri giác thành những con người sinh động khiến cho bài chợ Tết trở nên một bài thơ tả cảnh giàu tính họa có hồn bức tranh thơ hiếm có trong khu vườn nghệ thuật nước nhà. Con người và sự vật đã đủ đầy, tập trung cho một sự hoạt động tưng bừng rộn rịp trong phiên chợ truyền thống của năm theo phong tục có từ muôn đời của tổ tiên. Quang cảnh chợ Tết khổ 2 câu 16 – 38 thực sự diễn ra. Nhà thơ đã dành trọn 23 câu khoảng giữa bài thơ để tả cảnh họp chợ Tết đông vui, có đủ người mua bán, khách hàng, chú bán tranh, thầy khóa ông đồ viết câu đối, bà lão, lũ trẻ con lẫn thú vật, gia cầm… Với lòng yêu đời, tinh thần lạc quan, nhà thơ đã vẽ lên cảnh chợ Tết nhộn nhịp rộn ràng, có con trâu hiền lành mà quái quắc, đôi mắt giã vờ lim dim ngủ, để lắng nghe chuyện của con người! Thật là hóm hỉnh. Trong phần chính giữa bài thơ, tác giả dành trọn sự tập trung quan sát để mô tả con người qua cử chỉ, dáng điệu, âm thanh cười, nói trong hoạt động chung của họ. Ở khổ 1, số lượng câu mô tả thiên nhiên trước để làm nền chuẩn bị cho sự xuất hiện của con người chủ thể từ trước đến nay luôn được coi là trung tâm vũ trụ, thì sang khổ 2, tứ thơ đều xoay quanh việc mô tả sinh hoạt cảnh chợ Tết với đối tượng chính là con người. Đoạn thơ mang tính thuật sự bằng nhận xét tinh tế và bút pháp tài hoa của một nhà thơ có tài giàu tâm hồn nghệ sĩ. Quan hệ thứ tự không gian rạch ròi được chỉ rõ qua các trạng từ chỉ nơi chốn trên, dưới, trong, ngoài… giao thoa cùng những từ ngữ phong phú chỉ màu sắc, âm thanh, hình tượng kĩu- kịt, bô -bô, hí- hoáy, phau- phau, rũ- rượi, đỏ chót, như núi tuyết, như cục tiết…, và bút pháp điêu luyện của nhà thơ không khác nào nghệ thuật phối màu tài tình, lão luyện của một họa sĩ tả cảnh nhà nghề paysagiste Người mua bán ra vào đầy cổng chợ / Con trâu đứng vờ dim đôi mắt ngủ? Để lắng nghe người khách nói bô-bô/ Anh hàng tranh kĩu kịt quảy đôi bồ/ Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán/ Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản/ Tay mài nghiên, hí hoáy viết thơ xuân/ Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm/ Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ/ Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ/ Nước thời gian gội tóc trắng phau phau/ Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu/ Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu/ Áo cụ lý bị người chen sấn kéo/ Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra/ Lũ trè con mãi ngắm bức tranh gà/ Quên cả chị bên đường đang đứng gọi/ Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi/ Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa/ Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha/ Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết/ Con gà trống màu thâm như cục tiết/ Một người mua cầm cẳng dốc lên xem. Không gian bức tranh chợ Tết ở thể tĩnh chuyển sang không gian động, thân mật gần gũi với sinh hoạt con người nhờ tác giả khéo dùng từ thích đáng và biện pháp tu từ nhân hoá sinh động Tia nắng tía nháy hoài…/ Núi uốn mình…/ Đồi thoa son… Đọc kỹ lại phần hai của bài thơ, người đọc nhận ra được là trong sinh hoạt mua bán ở đây, người bán hàng nhiều hơn người mua. Bức tranh chợ Tết với người đi xem tạo ra một giai điệu nhiều cung bậc sum vầy, rực rỡ sắc màu. Như một định luật tuần hoàn của tự nhiên có hợp là có tan. Khổ 3 6 câu cuối cùng bài thơ diễn tả cảnh chợ tan. Đoạn kết bài thơ trở thành một dấu lặng chấm dứt bản nhạc miền quê trong ngày lễ truyền thống của dân tộc. Trong cảnh ngày tàn khắc lụn, văng vẳng từ xa tiếng chuông chùa, trên những con đường quê quen thuộc vàng vỏ ánh tà dương, lả tả những chiếc lá đa rơi rụng, đoàn người đi chợ Tết thong dong, lũ lượt kéo nhau trở lại nhà để chuẩn bị cho bao nhiêu công việc ngày Tết bận rộn khác khi đêm về Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm/ Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh/ Trên con đường đi các làng hẻo lánh/ Những người quê lũ lượt trở ra v / Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê/ Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ. Bài Chợ Tết của nhà thơ Đoàn Văn Cừ đẹp như một bức tranh cổ, trầm lắng mà thâm thúy, rực rỡ thắm tươi mà dịu dàng hồn nhiên, như chứa đựng được cái hồn quê đã tồn tại tự muôn đời của dân tộc. Đánh giá bài thơ Chợ Tết của Đoàn Văn Cừ, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã viết “Những bức tranh trong thơ Đoàn Văn Cừ không phải chỉ đơn sơ vài nét như những bức tranh xưa của Á Đông. Bức tranh nào cũng đầy dẫy sự sống và rộn rịp những hình sắc tươi vui. Mỗi bức tranh là cả một thế giới linh hoạt”. Những bài thơ về chủ đề thôn quê như Đám hội, Đám cưới mùa xuân, Ngày xuân chơi đồng quê,…và đặc biệt là phiên Chợ Tết miền quê, với màu sắc tươi tắn, hình ảnh ngộ nghỉnh, xúc cảm dạt dào của nhà thơ Đoàn Văn Cừ, ắt sẽ còn đọng mãi qua thời gian trong lòng những người thích thi ca và yêu mến nông thôn. Post Views 222 Làng Thơ Việt Nam lại vừa mất đi một hồn thơ lặng lẽ và khiêm nhường nhà thơ Đoàn Văn Cừ. Phiên Chợ Tết bất hủ của ông đã đi vào tâm trí người đọc nhiều thế hệ; “chuỗi cười ngũ sắc” Thi nhân Việt Nam dạt dào sự sống, niềm yêu đời, cái nhìn bao dung, nhân ái đó đã đi vào tâm hồn ta. Chợ Tết * 1. Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,3. Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,4. Người các ấp tưng-bừng ra chợ Họ vui-vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;6. Những thằng cu áo đỏ chạy lon-xon,7. Vài cụ già chống gậy bước lom-khom,8. Cô yếm thắm che môi cười lặng-lẽ, 9. Thằng em bé nép đầu bên yếm Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu,11. Con bò vàng ngộ-nghĩnh đuổi theo Sương trắng dỏ đầu cành như giọt sữa, 13. Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,14. Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, 15. Đồi thoa son nằm dưới ánh bình-minh. * 16. Người mua bán ra vào đầy cổng Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ,18. Để lắng nghe người khách nói Anh hàng tranh kĩu-kịt quảy đôi bồ,20. Tìm đến chỗ đông người ngồi dở Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản, 22. Tay mài nghiên hí-hoáy viết thơ Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,24. Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,26. Nước thời-gian gội tóc trắng phau Chú hoa-man đầu chít chiếc khăn nâu, 28. Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt áo cụ lý bị người chen sấn kéo,30. Khăn trên đầu đương chít cũng tung Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà32. Quên cả chị bên đường đang đứng Mấy cô gái ôm nhau cười rũ-rợi,34. Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha,36. Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết,37. Con gà trống màu thâm như cục tiết,38. Một người mua cầm cẳng dốc lên xem. *39. Chợ tưng-bừng như thế đến gần Khi chuông tối bên chùa văng-vẳng đánh,41. Trên con đường đi các làng hẻo-lánh,42. Những người quê lũ-lượt trở ra ánh dương vàng trên cỏ kéo lê-thê,44. Lá đa rụng tơi-bời quanh quán chợ. Ngày nay - “Tiếng cười ta còn nghe văng-vẳng thì người đã biến đâu rồi và ta đành chờ mùa xuân khác”. Thi nhân Việt Nam Đọc lại bài thơ ta tưởng như còn nghe thấy tiếng cười khúc khích, hóm hỉnh, lại rất hiền lành của một nhà thơ thôn dã. Chép lại bài thơ và tìm hiểu nó, tôi coi như một niềm thành kính, một nén tâm hương tưởng nhớ đến con người của những vẻ đẹp Thôn ca bình dị. Những con số đứng đầu dòng thơ là do tôi đánh để tiện phân tích. ** * Trong biểu tượng văn hóa thế giới chợ, theo quan niệm của Trung Hoa cổ vừa là nơi trao đổi, mua bán, còn là địa điểm hẹn hò yêu đương, nơi diễn ra các nghi lễ cầu mưa, sản xuất dồi dào, cầu trời phù hộ… Từ điển còn cho biết điều này đúng đến mức nếu muốn trời thôi mưa phải cấm phụ nữ bước vào chợ. Nói cho vui Cấm chị em đi chợ thì chợ thiệt, đàn ông thiệt vì bếp đói, chị em cũng chẳng vui vẻ gì “Môn thể thao ưa thích nhất của phụ nữ là đi chợ”! Riêng với chợ trong những ngày Tết thì không chỉ có chị em. Thực ra, vẫn theo biểu tượng văn hóa thế giới, chợ còn là nơi giao hòa âm dương, là địa điểm thái bình. Cấu trúc không gian của bài thơ hài hòa và tấp nập, đan xen thanh bình giữa thiên nhiên và con người. Bài thơ gồm ba khổ khổ 1, 15 dòng; khổ 2, 23 dòng; khổ 3, 6 dòng được ngăn cách bởi các dấu sao. Khổ 1 và khổ 3 đều có thiên nhiên và con người. Riêng khổ 2, trung tâm của bài thơ, lớn nhất, chỉ dành để quan sát, miêu tả con người trong những cử chỉ, dáng điệu, âm thanh cười, nói cùng những hoạt động của họ. Nếu như ở khổ 1, số dòng thơ tương đối cân bằng giữa thiên nhiên và con người 8/7 trên đường đến chợ; thì ở khổ 3 thiên nhiên lấn át con người 5/1 cảnh chợ vãn, gợi nhớ đến Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Trong khổ 2, chợ xuất hiện thay chỗ cho thiên nhiên; “người kể chuyện” hướng cái nhìn đôn hậu của mình vào đối tượng là con người để “tự sự”. Không gian trong văn bản nghệ thuật là “tổng hợp của các đối tượng cùng loại” và “giữa chúng có các quan hệ giống các quan hệ không gian thông thường tính liên tục, khoảng cách...” Yu. Lotman. Những từ ngữ chỉ quan hệ không gian trên, dưới, trong, ngoài trong thơ Đoàn Văn Cừ “chuyển kênh” rất từ tốn, nhẹ nhàng, chậm rãi cùng với một lễ hội của sắc màu tươi vui, rực rỡ “Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, / Sương hồng lam ôm ấp mái nhà tranh, / Trên con đường viền trắng mép đồi xanh”. Từ không gian tĩnh, khách quan được tiếp xúc từ xa này chúng ta chuyển sang không gian động, chủ quan được tiếp xúc thân mật, gần gũi qua những động từ có tính chất vận động “Sương trắng dỏ đầu cành như giọt sữa, / Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa, / Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, / Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh”. Trong cả hai cảnh trên không gian được xếp theo trục thẳng đứng trên - dưới từ đỉnh núi xuống đến con đường; từ đầu cành đến trong ruộng lúa, từ núi xuống đồi. Khu vực tiếp xúc sáp lại dần cho đến không gian công cộng nơi sinh hoạt của con người. Cùng với sự vận động của thiên nhiên, là con người “tưng bừng ra chợ Tết” nam, phụ, lão, ấu và có lẽ người bán nhiều hơn cả người mua chỉ đến cuối khổ 2 dòng 38 mới thấy có “Một người mua cầm cẳng dốc lên xem” một con gà. Ngoài ra, từ bán vẫn áp đảo anh hàng tranh ngồi dở bán; bà cụ lão bán hàng; anh chàng bán pháo. Người ta đi xem Chợ Tết cùng với âm thanh nhiều cung bậc cười lặng lẽ; nói bô bô; nhẩm đọc; cười rũ rợi... Có hai câu đứng độc lập một cách độc đáo không liên hệ với trước nó và cũng không liên hệ với sau nó. Mở đầu khổ 2 “Người mua bán ra vào đầy cổng chợ.” 16 và mở đầu khổ 3 “Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm.” 39. Cả hai câu đều đứng ở đầu mỗi khổ để thông báo ngắn gọn về cái sắp diễn ra và cái sẽ kết thúc. Sau câu 16 trở đi, thì gần như cứ luân phiên một dòng có dấu phảy đến một dòng có dấu chấm thành một cặp câu đủ tạo nên một bức tranh “Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ, / Để lắng nghe người khách nói bô-bô.” Rồi “Anh hàng tranh kĩu-kịt quảy đôi bồ, / Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán.”… Cứ như thế, cả khổ 2 người đọc sẽ được thưởng thức 10 cảnh rất vui về hoạt động của con người với những âm thanh, cử chỉ cùng sắc màu. Cũng với dấu chấm câu rất cẩn thận như vậy 4 câu đầu và 4 câu cuối của khổ 1 là những bức tranh hoàn chỉnh về thiên nhiên “nằm dưới ánh bình minh” mà ở giữa đó là con người. Cặp câu kết của bài thơ vẫn có màu sắc nhưng đã bớt nhiều tươi vui “Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê-thê, / Lá đa rụng tơi-bời quanh quán chợ.” Những từ láy lê-thê, tơi-bời vần bằng có chút gì đó của thê lương, ảm đạm đối lập hẳn với không khí náo nhiệt bên trên. Nhận xét về câu kết trong thơ Đoàn Văn Cừ, các tác giả của Thi nhân Việt Nam đã viết “Những câu ấy đều khép lại một thế-giới và mở ra một thế-giới khép một thế-giới thực, mở một thế-giới mộng. Cảnh vừa tan thì trong lòng cũng vừa nhóm. Mắt ta không thấy gì nữa nhưng lòng ta bỗng bâng-khuâng”. Cái “thế-giới mộng” ấy có lẽ còn nằm ở nguyên tắc phối màu của bài thơ. Chúng tạo thành những bức tranh được “lắp ghép” liền kề nhau, “độc lập” bên nhau, hối hả, náo nhiệt. Một khu triển lãm trưng bày sắc màu mà gam chủ đạo là màu nóng ấm màu đỏ. Màu đỏ trong biểu tượng văn hóa thế giới được coi là “biểu tượng cơ bản của bản nguyên sống”, là “màu của ngày, của dương tính”, của sự sống, của thiên ân, thông điệp của hy vọng, “phát tiết từ mặt trời và đó là màu siêu việt nhất”… cũng là màu của tình cảm. Màu đỏ cùng với “họ hàng” đậm nhạt của nó hồng, son, thắm, tía trở đi trở lại đến 9 lần, gần như rải suốt chiều dài bức tranh Chợ Tết ít hơn một chút so với tổng các màu còn lại 4 từ trắng; 4 từ xanh, biếc, lam; 3 từ vàng; 1 từ nâu. Riêng đối với từ vàng thì con bò vàng 11 và đống vàng 28 chỉ vật chất đối lập với ánh dương vàng 43 chỉ tinh thần, hướng nội. Cũng tương tự như vậy với từ trắng 3 lần đầu mây trắng 1; con đường viền trắng 3; sương trắng 12 chỉ vật chất; 1 lần cuối vừa chỉ vật chất tóc trắng 26 vừa chỉ thời gian. Các tác giả của Thi nhân Việt Nam đã nhận xét rất tinh tế về hai câu thơ này “Thỉnh thoảng giữa những câu tả chân chặt chẽ, chen vào một câu bất ngờ, vụt ngời lên như một luồng sáng giữa bức tranh Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ, Nước thời gian gội tóc trắng phau phau." Giờ đây khi nhìn vào cấu trúc bài thơ thấy trên hai câu này là 24 dòng và dưới nó là 18 dòng, cũng coi như nằm “giữa bức tranh” đúng như nhận định bên trên. Đây là hai câu tuyệt bút hiếm hoi về thời gian và đậm đặc tính thời gian bà cụ lão; miếu cổ; nước thời gian; tóc trắng in dấu vết thời gian đều đứng án ngữ ở hai đầu hai câu thơ tạo nên một bức tranh vừa im lìm vừa chuyển động của thời gian. * Đọc lại Chợ Tết ta bỗng thấy hân hoan, vui thích bởi sự chuyển động của không gian, sắc màu và con người. Nhà họa sĩ “ngây thơ” Đoàn Văn Cừ đã trình bày cho ta biết một “bản nguyên sống” trong sự tồn tại hồn nhiên, bề bộn mà lại nhịp nhàng của đời sống. Trong đời sống đó, con người là trung tâm trong cái nhìn và sáng tạo nghệ thuật của ông Con người là trung tâm trong mỗi khổ thơ; con người lại là trung tâm khổ 2 của toàn phiên Chợ Tết mà ở giữa trung tâm đó lại là thời gian. Cái thời gian sẽ chia cách hai thế giới đối với mỗi số phận; nhưng cũng cái thời gian đó sẽ làm bền vững hơn cho những tác phẩm nghệ thuật đích thực, cho nền tảng văn hóa sâu xa của mỗi cộng đồng người mà Chợ Tết là muôn một. Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2004 _____________________ * Bài thơ trên được trích trong tập Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Hoa tiên, 1967. Chúng tôi có tham khảo thêm hai bản khác Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam 1932 - 1945, NXB Văn học, Hà Nội, 1988; và Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 1998. - TG. ** Đoàn Văn Cừ mất ngày 27/6/2004, thọ 92 tuổi. - eVăn. Bài thơ Chợ Tết Đoàn Văn Cừ Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh, Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết. Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc, Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon... mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh, Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết. Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc; Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon, Vài cụ già chống gậy bước lom khom, Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ. Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ, Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu, Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo trắng rỏ đầu cành như giọt sữa, Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa, Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh. Người mua bán ra vào đầy cổng chợ. Con trâu đứng vờ rim hai mắt ngủ, Để lắng nghe người khách nói bô bô. Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ, Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán. Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản, Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân. Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm, Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ. Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ, Nước thời gian gội tóc trắng phau phau. Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu, Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu. Áo cụ lý bị người chen sấn kéo, Khăn trên đầu đang chít cũng bung ra. Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà, Quên cả chị bên đường đang đứng gọi. Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi, Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa. Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha. Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết, Con gà trống mào thâm như cục tiết, Một người mua cầm cẳng dốc lên tưng bừng như thế đến gần đêm, Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh, Trên con đường đi các làng hẻo lánh, Những người quê lũ lượt trở ra về. Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê, Lá đa rụng tơi bời quanh quán giả Đoàn Văn thơ Chợ Tết đăng lần đầu trên báo Ngày trên dẫn theo Đoàn Văn Cừ toàn tập, dưới đây là bản trong Thi nhân Việt Nam, có một số khác biệtBài thơ Chợ TếtDải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết. Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc; Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon, Vài cụ già chống gậy bước lom khom, Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ. Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ, Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu, Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau. Sương trắng dỏ đầu cành như giọt sữa, Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa, Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, Đồi thoa son nằm dưới ánh bình mua bán ra vào đầy cổng chợ. Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ, Để lắng nghe người khách nói bô bô. Anh hàng tranh kĩu kịt quảy đôi bồ, Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán. Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản, Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân. Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm, Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ. Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ, Nước thời gian gội tóc trắng phau phau. Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu, Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu. Áo cụ lý bị người chen sấn kéo, Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra. Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà, Quên cả chị bên đường đang đứng gọi. Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rợi, Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa. Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha. Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết, Con gà trống màu thâm như cục tiết, Một người mua cầm cẳng dốc lên tưng bừng như thế đến gần đêm, Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh, Trên con đường đi các làng hẻo lánh, Những người quê lũ lượt trở ra về. Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê, Lá đa rụng tơi bời quanh quán 1. Chợ Tết, Đoàn Văn Cừ toàn tập, NXB Hội nhà văn, 2013 2. Chợ Tết, Tinh tuyển văn học Việt Nam tập 7 Văn học giai đoạn 1900-1945, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2004 3. Chợ Tết, Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Hoa tiên, thơ Chợ Tết Đoàn Văn Cừ Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh, Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết. Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc, Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon… thơ Chợ Tết Đoàn Văn Cừ Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh, Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết. Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc, Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon… thơ Chợ Tết Đoàn Văn Cừ Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh, Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết. Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc, Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon…

bài thơ chợ tết của đoàn văn cừ