Đánh giá về Trang chủ - Phủ Dầy Nam Định. QUẦN THỂ PHỦ DẦY. Tiểu sử Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy (chép theo Ngọc phả) Phủ Dầy Nam Định ở đâu ? Phủ Dầy - trung tâm của Đạo Mẫu Việt Nam là tên gọi chung cho các di tích thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh thuộc hai thôn Tiên Hương và Vân Cát tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản. Nơi đây được coi là trung tâm - thánh địa thờ Mẫu lớn nhất cả nước. Hàng năm vào tháng 3 âm lịch nơi đây tổ chức Lễ hội Phủ Dầy rất trang trọng và quy mô lớn của cả nước. Liễu Hạnh đã được phụng thờ ở nhiều nơi: Phủ Dầy, Phủ Tây Hồ, Phủ Sòng và rất nhiều các phủ, đền khác. Nhưng lễ hội Phủ Dầy là lễ hội lớn nhất và có tính quy mô nhất. Hội Phủ Dầy kéo dài 10 ngày từ mồng 1 đến mồng 10 tháng 3 âm lịch. Đồ lễ phổ biến Phủ Dầy Nam Định quần thể di tích lịch sử văn hóa với trên 20 di tích được xếp hạng, là trung tâm của Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam, lễ hội Phủ Dầy được tổ chức quy mô hàng năm vào tháng 3 âm lịch, là một trong bảy lễ hội quy mô lớn nhất cả nước để thành kính, tưởng nhớ và suy tôn Thánh Mẫu Liễu Hạnh vị thần chủ của Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam - một trong tứ bất Phủ Dầy (có khi ghi là Phủ Giầy, Phủ Giày) là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng truyền thống của người Việt trải rộng trên địa bàn 3 xã Kim Thái, Quang Trung, Đại An thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, gần quốc lộ 10, quốc lộ 37B và quốc lộ 38B từ Thành phố Nam Định đi Thành phố Ninh Bình. Fast Money. Chào mừng bạn đến với Bạn hãy cùng chúng tôi khám phá Phủ Dầy Nam Định gồm có những vẻ đẹp, văn hoá, ẩm thực và con người nơi đây như thế nào nhé Phủ Dầy Nam Định nằm ở đâu của nước ta? Dưới đây là một số bài viết về chủ đề khám phá, địa điểm tham quan du lịch được chúng tôi liên tục cập nhật hằng ngày tại website Mời bạn cùng chúng tôi theo dõi nhé! Phủ Dầy có khi ghi là Phủ Giầy, Phủ Giày là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng truyền thống của người Việt trải rộng trên địa bàn 3 xã Kim Thái, Quang Trung, Đại An thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, gần quốc lộ 10, quốc lộ 37B và quốc lộ 38B từ Thành phố Nam Định đi Thành phố Ninh Bình. Quần thể Phủ Dầy bao gồm hơn 20 di tích gắn liền với cuộc đời Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong lần giáng sinh thứ 2. Trong đó, kiến trúc quan trọng nhất là Phủ Tiên Hương, Phủ Vân Cát và Lăng Thánh Mẫu Liễu Hạnh, các di tích nằm ngay sát chợ Viềng. Các kiến trúc còn lại là các phủ Phủ Bóng Đền Cây Đa Bóng, phủ Giáp Ba, phủ Bất Di, đền Công Đồng, phủ Đá, phủ Nội, phủ Tổ Khải Thánh, đền Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai, đền Mẫu Thượng, đền Mẫu Thoải, đền Trình, đền Đức Vua, đền Quan Lớn, đền Mẫu Đông Cuông, đền thờ Lý Nam Đế, chùa Dần, chùa Gôi, chùa Vân Cát, chùa Tiên Hương, chùa Linh Sơn… Phủ Tiên Hương thờ bên nhà chồng của Mẫu Liễu Hạnh, còn phủ Vân Cát và Phủ Tổ là nơi thờ Mẫu và bên ngoại bên bố mẹ đẻ của Mẫu. Phủ Tiên Hương là một công trình đẹp được xây dựng từ thời Lê – Cảnh Trị 1663 – 1671 và đã qua nhiều lần trùng tu. Phủ Tiên Hương có 19 toà với 81 gian lớn nhỏ, mặt phủ quay về phía tây nam nhìn về dãy núi Tiên Hương. Trước phủ có hồ và một sân rộng, có 3 toà nhà dàn hàng ngang hai tầng, tách mái đó là phượng du nơi đón khách tới hành hương. Một hồ bán nguyệt có lan can thấp bao quanh, có bình phong và hai cầu vượt đều bằng đá chạm khắc hình con rồng với móng vuốt sinh động tinh xảo. Phủ có 4 lớp thờ 4 cung đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ. Các cung đều được tập trung các nghệ thuật chạm khắc tinh vi, thể hiện đủ các mảng đề tài rồng, phượng, hổ… Chính cung cung đệ nhất có một khám thờ khảm trai, bề thế và tinh xảo. Đây chính là nơi đặt 5 pho tượng có giá trị mỹ thuật cao của thế kỷ thứ 19. Phủ Vân Cát được xây dựng trên khu đất rộng gần 1ha, mặt quay về hướng tây bắc. Phủ Vân Cát hiện nay có 7 toà với 30 gian lớn nhỏ. Phía trước có hệ thống cửa ngọ môn với 5 gác lầu; phía ngoài ngọ môn có hồ bán nguyệt, giữa hồ là nhà thủy lâu, 3 gian, mái cong. Phủ Vân Cát cũng có 4 cung như ở phủ Tiên Hương. Trung tâm là nơi thờ chúa Liễu, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải là đền thờ Lý Nam Đế. Lăng Bà Chúa Liễu được xây dựng vào năm 1938. Lăng được xây dựng bằng đá xanh, chạm trổ đẹp, với diện tích 625m2, gồm có cửa vào lăng theo hướng đông tây, nam bắc. Các cửa đều có trụ cổng trên đắp hình bông sen. Giữa lăng là ngôi mộ khối bát giác, mỗi cạnh chừng 1m. Toàn lăng có 60 búp sen hồng trông xa như một hồ sen cạn. Hội Phủ Dầy được tổ chức hàng năm vào ngày 3 tháng 3 âm lịch. Lễ hội nhằm tổ chức nghi lễ, thắp hương biết ơn Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Cùng thời điểm này, bà Chúa Liễu Hạnh cũng được thờ tại nhiều lễ hội khác trên Việt Nam, nhưng hội Phủ Dầy thuộc vào loại long trọng nhất, với sự tham gia của đông đảo dân chúng. Có 3 nghi thức quan trọng nhất trong Lễ hội Phủ Dầy bao gồm Lễ Rước Mẫu Thỉnh Kinh, Lễ Rước Đuốc, Lễ kéo chữ Hoa Trượng Hội. Ngoài ra trong lễ hội còn có các trò chơi truyền thống như Thi hát văn, hát chèo, múa rối nước, đấu vật, đấu cờ người, thổi cơm thi… Nghi lễ Hầu Đồng diễn ra trong suốt thời gian lễ hội. Thành ngữ dân gian một số nơi ở miền Bắc có câu Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ Cha là Đức Thánh Trần Hưng Đạo, còn Mẹ chính là Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Vậy là chúng ta đã tìm hiểu thêm được nhiều thông tin bổ ích ở Phủ Dầy Nam Định rồi đấy! Nếu còn thiếu sót thông tin gì về nơi đây, mong bạn hãy để lại bình luận bên dưới để chúng tôi cập nhật bổ sung nhiều thông tin đầy đủ hơn cho người khác được biết. Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm những địa chỉ tham quan khác, bạn hãy truy cập ở đây Từ khoá tìm kiếm về chủ đề tham qua, khám phá Phủ Dầy Nam Định địa chỉ tham quan du lịch và Khám phá vẻ đẹp của Phủ Dầy Nam Định Chân thành cảm ơn bạn đã ghé thăm trang tin của chúng tôi. Chúng tôi luôn chúc bạn khoẻ mạnh và có nhiều niềm vui trong cuộc sống! Nguồn Foox Nhắc đến Đền Dầm địa danh nổi tiếng mà hầu hết các thanh đồng đạo quan trong tín ngưỡng thờ Mẫu đều biết đến, nơi đây còn gắn với nhiều câu chuyện ly kỳ về việc Thánh Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ hiển linh báo mộng giúp Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đánh giặc ngoại xâm. Đền Dầm là ngôi đền nằm trên địa phận thôn Xâm Dương, xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, Hà Nội. Đền Dầm thuộc cụm di tích có ba ngôi đền nằm kề nhau là Đền Đại Lộ, Đền Sở và Đền Dầm, có Chùa Công Minh nằm sát nhau cùng đền Đại Lộ cách đó chừng 200m nằm ngoài đê sông Hồng và đều thờ nữ thần, Mẫu thần. Đền Dầm thờ Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ, một trong Tam Tòa Thánh Mẫu trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, bên cạnh Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên và Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn. Mẫu Thượng Thiên cai quản chung ngự trên miền trời, Mẫu Thượng Ngàn cai quản miền rừng núi và Mẫu Thoải cai quản vùng sông nước. Dân gian cũng cho rằng, sông nước gắn liền với sự sinh sôi, nảy nở. Nếu muốn cầu cho mùa màng bội thu, cây cối tươi tốt, tài lộc đầy nhà thì họ thường cầu lên Mẫu Thoải. Có thể nói Đền Dầm là một ngôi đền thiêng có từ thời nhà Trần. Đây là một trong những ngôi đền có số lượng sắc Phong lớn nhất Việt Nam dưới các triều Trần, Lê, Nguyễn sắc phong đến 28 lần Trần triều 7 đạo, Lê triều 13 đạo, Nguyễn triều 8 đạo – một kỷ lục về sắc phong, khó có đền phủ nào được như vậy. Số lượng sắc phong này ngang với Phủ Chính Tiên Hương – Nơi chính thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại Phủ Dầy Nam Định. Đền Dầm gắn liền truyền thuyết “Hoàng Long công chúa hiển linh báo mộng giúp Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đánh giặc ngoại xâm”. Khi thắng trận trở về, ông dâng biểu lên vua báo công. Vua sai sứ giả về Xâm Miện vào miếu nay là đền Dầm bái tạ, và ban tặng sắc phong. Rồi lệnh cho nhân dân Xâm Miện đến kinh thành rước sắc về để dân làng thờ phụng. Các triều vua kế tiếp sau này đều có sắc phong cho đền. Sau này để tưởng nhớ công ơn của Hưng Đạo Vương đã trình tấu lên vua ban sắc phong cho đền Dầm, nhân dân địa phương đã xây dựng một ngôi đền bên cạnh để thờ Hưng Đạo Vương. Vì thế mà trong khuôn viên có thêm đền Trần bên cạnh đền chính, không chỉ có miếu cô, miếu cậu mà còn có cả đền thờ Trần Hưng Đạo. Thần phả Đền Dầm về Mẫu Thoải Vào vua Trần Thái Tông trị vì đất nước năm 1225, trên thiên đình có nàng tiên nữ thứ 3 đến chầu Thượng Đế, chẳng may làm vỡ chén ngọc, trăm quan nghị tội, giáng xuống thủy cung làm con gái Long Vương. >>> Xem thêm Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ đền thờ và văn khấn Mẫu Thoải Hát văn hầu Mẫu Đệ Tam Mẫu Thoải Được gả cho Đô Đốc Côn Bằng đại tướng quân Kinh Xuyên làm vợ lẽ. Vợ cả của Kinh Xuyên là Thảo Mai, thấy nàng tài sắc bèn ghen gét đem lòng gieo oan, giả làm 1 bức thư, tố cáo với Kinh Xuyên vu nàng tư thông phản bội chồng. Kinh Xuyên giận dữ đày nàng vào chốn rừng sâu núi thẳm, suốt 10 năm sống ở núi Ngọc Hồ Kim Quy, làm bạn với chim muông cầm thú, sinh sống bằng hoa trái qua ngày. Một hôm thấy gió lượn mặt hồ, mây đùn phía chân trời, tưởng nhớ quê nhà, thương cha nhớ mẹ, lòng buồn bã rối bời, nhân đó nàng ngâm một bài thơ rằng “Từ biệt Kinh Xuyên trải mấy thu Trời xanh mây lượn nhớ quê nhà Tiêu hao trần thế bao ngày tháng Cố hương thủy cốc biết nao về.” Tiếng ngâm chưa dứt mà dòng lệ chứa chan, tựa vào gốc cây, tinh thần mê man lúc say lúc tỉnh. Lại nói, thời ấy có 1 người ở xã Ngọc Lạp, huyện Thanh Miện, phủ Hồng Châu, đạo Hải Dương, họ Liễu, tên Nghị, là danh sĩ thời bấy giờ. Một hôm Nghị cùng vài tên gia đồng chèo thuyền đến Ngọc hồ ngắm cảnh, để hưởng thú vị ngư ông. Thuyền đến hồ Kim Quy, bỗng nghe tiếng ngâm thơ văng vẳng, lời lẽ thảm thê, trong lòng lấy làm lạ, bèn nói với bọn gia đồng đi theo rằng “Không biết thần tiên hay ma quỷ mà lại có lời lẽ thê thảm đến như vậy….” .Ông bèn cho người dừng thuyền bên bờ quan sát thấy người con gái tuổi độ 18, mi xanh như liễu rủ, má thắm tựa hoa đào, dẫu tiên nữ ở cung trăng, hay phi tần nơi thượng giới, cũng không thể hơn được. Ông cười và bảo rằng – Cốt cách trần thế mà dáng vẻ thần tiên, may mắn nay gặp gỡ, nếu không phải là trăng rằm thì cũng là băng tuyết quy hòa nhập lại. Nhân đó ông mới hỏi về nguồn gốc nguyên do, người con gái ứa lệ thưa rằng – Thiếp vốn là con gái Hoàng Đế Long Cung là vợ lẽ của Kinh Xuyên, chẳng ngờ thiên xứ dáng họa vô cớ, nay may gặp người tốt ở đây, dám xin người có kế sách gì cứu giải oan khiên, thiếp nguyện thề có sông núi không quên ơn nghĩa. Liễu Nghị lại hỏi – Dương gian thủy cốc cách biệt lấy gì mà nghe thấu được ? Nàng nói – Thiếp có một cây châm vàng trao cho ngài, cảm phiền đi đến cửa biển Đông Hải, hễ thấy cây Ngô Đồng thì gõ vào ba tiếng tất thảy thủy cung sẽ đều nghe biết. Nói xong nàng viết một phong thư nói rõ sự việc rồi đưa thư và cây châm cho Liễu Nghị. Sau khi từ biệt Liễu Nghị gắng sức lên đường, qua bảy ngày đêm đến cửa biển Đông Hải nay là cửa Diêm Hồ huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình bỗng thấy cây ngô đồng cổ thụ, ông làm đúng lời người con gái dặn, tay cầm châm gõ vào gốc cây ngô đồng, bỗng thấy một con rắn trắng nổi lên khỏi mặt nước, Liễu Nghị đem sự việc trên nói với rắn, rắn trắng rẽ nước đưa ông về thủy phủ. Đến nơi ông vào bái yết Long Vương trình rõ sự việc và đem thư cùng châm vàng dâng lên Long Vương. Xem thư xong, bèn truyền rắn trắng đưa Liễu Nghị về lầu Nam dọn tiệc khoản đãi. Ngay hôm đó truyền hai con trai là Xích Lâm và Quân Khu Thủy tiến thắng đến xứ Ngọc Hồ Kim Quy đón công chúa về thủy quốc. Ngày mùng 9 tháng Giêng vua Long Vương gả công chúa Xích Lân cho Liễu Nghị và phong làm Phò Mã Quốc Tề Quận Công đồng thời cho cùng ở thủy phủ với công chúa. Sai lục bộ thủy tề đầy Kinh Xuyên và Thảo Mai lên núi Ngọc Hồ Kim Quy. Lại nói từ khi công chúa Xích Lân trở về thủy quốc tất cả dân hai bên bờ sông Cái từ thượng nguồn nơi Ngọc Hồ Kim Quy đến hạ lưu Ba Lạt – Thái Bình đều mắc bệnh dịch nơi đó thời cổ là Trang Xâm Miện, xã Xâm Thị, huyện Thanh Đàm nay là Xâm Dương, Ninh Sở, Thường Tín, Hà Nội Khi đó vào nửa đêm dân làng đều nghe thấy tiếng chó sủa liên hồi và mơ thấy một người con gái mình mặc áo trắng mang đai ngọc lưu ly ngự trên rồng vàng bay lên từ mặt nước cất tiếng nói cứu nước giúp dân. Nói rằng “- Ta là con gái Long Vương, Thủy Tinh Ngọc Dung Công Chúa, Thượng đế sắc phong cho ta giúp nước cứu dân cõi Nam Giao, nay dân chúng gặp tai họa ta phụng lênh thượng đế đến cứu giúp. Sau được bình yên nhớ dựng miếu thờ viết thần hiệu phụng thờ ta thì ắt được nhân khang vật thịnh.” Trời sáng các vị bô lão cùng dân làng ai cũng nói có cùng giấc mơ như vậy, và bệnh tật dần tiêu tan hết. Dân làng bèn cùng nhau xây dựng ngôi miếu thờ hàng năm Quốc cầu, dân đảo đều linh ứng rõ rệt. Thần tích Mẫu Thoải hiển linh giúp Trần Nhân Tông chống quân Nguyên Mông Vào thời Trần Nhân Tông 1285-1293 giặc Nguyên Mông xâm phạm bờ cõi nước ta, nhà Vua mới ban sai Đức Hưng Đạo Đại Vương dẫn theo thủy lục chư binh chống giặc. Một lần, Đức Đại Vương kéo quân qua Xâm Miện khu đền Dầm ngày nay thì vừa lúc trời đà xẩm tối, ngài bèn hạ lệnh cho quân sỹ lên bãi sông cắm trại nghỉ lại qua đêm, riêng ngài ngủ lại trên thuyền. Nửa đêm hôm ấy bỗng đâu thấy sóng nổi, cát bay mây trời vần vũ, một chốc bỗng thấy dưới mặt nước long lanh ánh bạc một người tiên nữ mặc áo trắng, đai lưu ly cưỡi rồng vàng bay lên mặt nước. Tiên nữ bèn nói “Thiếp là con gái Hoàng Đế ở Long Cung tên là Thủy Tinh Ngọc Dung Công chúa, vâng lệnh Hoàng Thiên giúp nước, nay Quốc Công hãy đem quân đi đánh giặc ,thiếp nguyện sẽ âm phù trợ giúp sức, sau này chớ quên công thiếp”. Quả nhiên ít lâu sau thuyền giặc kéo qua Xâm Miện thì bỗng dưng nổi sóng to gió lớn thuyền bè quân lương đều chìm cả, giặc chết vô số. Các trận chiến trên Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương Đô, Đông Bộ Đầu….Đều có Thánh Mẫu linh phù làm sóng to gió lớn chìm tàu bè giặc chết đuối nhiều giúp quân ta thừa thắng. Vận nước thái bình, triều đình luận tội phong công. Quốc Công bèn làm biểu tâu lên rõ sự việc linh phù ở Xâm Miện. Triều đình luận công sắc phong Thánh Mẫu ban thưởng cho dân Xâm Miện tiền bạc xây dựng ngôi đền to lớn và ruộng đất để lo việc cúng tế hàng năm đồng thời sắc phong cho Thánh Mẫu. Các sắc phong được ban tại đền Dầm Các triều vua kế tiếp đều có sắc phong cho đền. Theo bảng thống kê lưu giữ ở Đền Dầm, hiện có các Sắc phong qua các triều đại như sau Năm 1633, vua Lê Thần Tông Tên sắc phong Đức Long Ngũ niên Năm 1857, vua Hoàng Đế Tự Đức Tên sắc phong Tự Đức Thập niên Năm 1880, vua Hoàng Đế Tự Đức Tên sắc phong Tự Đức Tam Thập niên Năm 1886, vua Kiến Giang Quận Công Tên sắc phong Đồng Khánh Nhị niên Năm 1909, vua Nguyễn Duy Tân tên sắc phong Duy Tân Tam niên Năm 1924, vua Hoàng Thân Phụng Hóa tên sắc phong Khải Định Cửu niên. Các sắc phong ghi trong thần phả gồm Năm 1633 vua Lê Thần Tông, Năm 1647 – 1649 vua Lê Chân Tông Năm 1650 – 1660 vua Lê Thần Tông, Năm 1670 vua Lê Huyền Tông, Năm 1674 vua Lê Gia Tông Năm 1685 vua Lê Huy Tông Năm 1711 vua Lê Dụ Tông Năm 1730 vua Hôn Đức Tông Năm 1740 – 1767 – 1783 vua Lê Hiến Tông. Không gian kiến trúc Đền Dầm Có thể nói, đền Dầm là một ngôi đền cổ kính có từ xa xưa là một trong số ít các đền phủ vẫn còn giữ được vóc dáng kiến trúc cổ, ít bị pha tạp. Nằm ven đê sông Hồng, ngôi miếu xưa kia nay đã được tu tạo thành đền thờ. Nơi này vẫn giữ được lối kiến trúc cổ xưa với cột gỗ và mái ngói, cùng khuôn viên thoáng đãng đã được lát gạch bằng phẳng. Bên trái chánh điện có gốc đa cổ thụ, theo tài liệu đã gần 900 năm. Gốc đa có nhiều rễ phụ biến thành gốc như cây đa Tây Thiên. Chánh điện là một nếp nhà dài, mái ngói vảy cá thô dày vảy cá xưa mỏng thanh hơn, cột gỗ sơn nâu, năm bậc cấp lên chánh điện láng xi măng. Trong Đền các hương án, bàn thờ đều chạm trổ rất công phu và đều sơn son thếp vàng. Các triều vua kế tiếp đều có sắc phong cho đền. Nhân dân cũng không quên xây một miếu để thờ Hưng Đạo Vương ở nơi đây. Vì thế mà bên cạnh đền, không chỉ có miếu cô, miếu cậu còn có miếu thờ Trần Hưng Đạo Vào tháng 2 ÂL hàng năm, đền Dầm lại tổ chức tiệc hội long trọng. Lễ hội đền Dầm được tổ chức trong nhiều ngày, bắt đầu từ ngày mùng 1 và kết thúc vào ngày mùng 10. Lúc này, đền tiếp đón hàng ngàn du khách hành hương tới tham quan, chiêm bái những giá trị tâm linh. Trong đó, ngày hội chính của đền diễn ra vào mùng 5. >>> Nhấn Subscribe để theo dõi các video về Phủ Dầy Nam Định tại kênh Phủ Dầy Nam Định Official 1. Phủ Dầy ở đâu Nam Định 2. Ý nghĩa tên gọi Phủ Dầy 3. Đền Phủ Dầy thờ ai 4. Kiến trúc Phủ Dầy Nam Định 5. Quần thể di tích tâm linh Phủ Dầy Phủ Tiên Hương Phủ Vân Cát Lăng Thánh Mẫu Liễu Hạnh Phủ Bóng – Nguyệt Du Cung Cách thành phố Nam Định 17 km về phía Tây- Nam, là vùng núi non đột khởi giữa đồng bằng, cảnh quan kỳ thú hấp dẫn. Khu di tích lịch sử văn hóa Phủ Giầy hay còn được ghi là Phủ Dầy là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng truyền thống của người Việt tại tỉnh Nam Định. Phủ Giầy bao gồm hơn 20 di tích gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của bà chúa Liễu Hạnh- vị thánh bất tử của Việt Nam. Di tích Phủ Dầy 2. Ý nghĩa tên gọi Phủ Dầy Phủ Dầy còn gọi là Phủ Giầy hay Phủ Giày. Mỗi tên gọi được gắn với những huyền thoại khác nhau về vùng đất. Phủ Giầy xuất phát từ truyền thuyết Bà Chúa Liễu Hạnh vì quá nhớ thương gia đình, chồng con nên đã để lại một chiếc giầy ở trần gian trước khi về thượng giới hoặc có huyền thoại Vua đi qua vùng này và nghỉ đêm ở quán hàng của bà chúa Liễu Hạnh, sau đó được tặng một đôi giày nên đã lập nơi thờ tự và gọi đó là Phủ Dầy. Phủ Dầy là quần thể di tích tâm linh Khi gọi Phủ Dầy còn vì chính nơi này có món bánh dày – giò nổi tiếng, lại có người cho rằng Kẻ Dày xuất phát từ nơi có gò đất nổi lên hình bánh dầy trước cửa phủ. Theo sử sách, Phủ Dầy ngày nay bắt nguồn từ tên một làng cổ là “Kẻ giầy”. Nơi đó, vào thời vua Tự Đức 1860 được chia là hai thôn Vân Cát và Tiên Hương. Như vậy, Vân Cát là nơi Mẫu được sinh ra, Tiên Hương là quê chồng và là nơi chôn cất Mẫu Liễu Hạnh. Vậy, Phủ Dầy chính là “cái nôi” Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh lần thứ hai. Phủ Dầy là địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng 3. Đền Phủ Dầy thờ ai Đền Phủ Dầy là một quần thể đền thờ gồm nhiều ngôi đền nhỏ ghép lại. Nhưng đặc biệt nhất là kiến trúc đền thờ bà chúa Liễu Hạnh phủ chính, ngay sát chợ Viềng. Và nhiều kiến trúc còn lại là Tiên Hương, Vân Các, Công Đồng từ, đền thờ Lý Nam Đế, chùa Linh Sơn, lăng bà chúa Liễu Hạnh. Phủ Tiên Hương là đền chính của Mẫu Liễu Hạnh và thờ bên chồng của Mẫu, còn phủ Vân Cát và Phủ Tổ là nơi thờ Mẫu và bên ngoại bên bố mẹ đẻ của Mẫu. Thờ Mẫu Liễu Hạnh 4. Kiến trúc Phủ Dầy Nam Định Nổi bật trong quần thể hơn 20 di tích, là 3 công trình kiến trúc có từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Phủ Giầy có kiến trúc gồm Phủ Vân Cát, phủ Tiên Hương và lăng Chúa Liễu. Trong đó, phủ Tiên Hương gồm ba tòa ngang là nhà trống, nhà bia và nhà chiêng. Phía trước phủ là khoảng sân rộng lớn được nối liền với hệ thống nghi môn trụ, chạm khắc rồng phượng và có sân cột cờ hình bán nguyệt. Kiến trúc của di tích Phủ Dầy Nam Định Khu vực chính điện thờ hệ thống Mẫu Tứ Phủ và Phủ Vân Cát ấn tượng với phía trước là hồ bán nguyệt, khu điện chính thờ Chúa Mẫu Liễu Hạnh. Khu vực bên trái thờ Phật và bên phải thờ Lý Nam Đế. Phần lăng Chúa Liễu tọa lạc trên góc hình chữ nhật và có phía trước là lăng mộ hình bát giác, công trình được xây dựng hoàn toàn bằng đá được chạm trổ vô cùng khéo léo. Hồ bán nguyệt 5. Quần thể di tích tâm linh Phủ Dầy Quần thể di tích tâm linh Phủ Dầy có đến 19 di tích tâm linh, chủ yếu liên quan đến Mẫu Liễu Hạnh. Phủ Tiên Hương Quần thể di tích Tâm Linh phủ Dầy có đến 4 địa điểm chính thờ Mẫu Liễu Hạnh. Phủ Tiên Hương được coi là nơi thờ chính của Mẫu Liễu Hạnh, là nơi thờ Mẫu và bên chồng của Mẫu. Phủ Vân Cát là nơi thờ Mẫu và bên ngoại của Mẫu bên bố mẹ đẻ. Phủ Bóng Nguyệt Du cung là nơi hiển linh của Mẫu sau khi hóa. Lăng Mẫu là nơi quàn của Mẫu sau khi về trời. Như vậy, có thể coi Phủ Tiên Hương là nơi thờ chính của Mẫu Liễu Hạnh. Phủ chính Tiên Hương được triều đình cho phép xây lập đền thờ 1642. Lúc đó phủ còn hết sức đơn sơ. Từ thời Lê Cảnh Trị 1663 – 1671 đến năm 1841 được chuyển thành công trình gạch ngói. Năm Duy Tân thứ chín 1915 do tổng đốc Đoàn Triển cho xây dựng lớn như ngày nay. Phủ Tiên Hương tuy qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được dấu tích của phủ cổ trước kia. Phủ Tiên Hương Hiện nay, Phủ chính Tiên Hương còn lưu giữ 15 đạo sắc phong thần cho Thánh Mẫu Liễu Hạnh, đạo sớm nhất ghi ngày 10 tháng chạp năm Vĩnh Khánh thứ 2 1730 phong Thánh Mẫu là Mã Vàng Công Chúa thượng đẳng thần, muộn nhất là đạo sắc ghi ngày 25/7/1924, năm Khải Định cửu niên phong Đức Thánh đệ Tam – Ngọc nữ Quang cung Quế Anh. Trong Phủ chính Tiên Hương còn lưu giữ nhiều cổ vật ghi rõ đây là phủ chính thờ Mẫu tại nơi Mẫu đầu thai. Đó là chiếc ấn đồng cổ đúc từ hàng trăm năm trước, trên ấn có hai chữ Hán ở lưng ấn Phủ chính, nhiều cổ vật sứ cổ được khắc chữ nhấn mạnh đây là đồ tế tự của phủ chính… Phủ Vân Cát Đền được xây dựng từ thời vua Lê Cảnh Thịnh 1663 – 1671. Khoảng đời Cảnh Thịnh 1794 – 1800 hội nguyên Trần Gia Du, thiếu tả giám Trần Công Bản đã mở rộng ra. Đến năm Kỷ Mão 1879 đời Tự Đức, quan huyện Lê Kỳ đã sửa lợp lại. Năm Thành Thái thứ 10 1898 đền phủ bị hư hại nhiều vì mưa gió nên các quan huyện… cùng các bậc thân hào đứng ra sửa. Đến năm Thành Thái thứ 12 1900 thì hoàn thành. Phủ Vân Cát Lăng Thánh Mẫu Liễu Hạnh Lăng được xây dựng vào thời Vua Minh Mệnh 1820 – 1840 với ban đầu chủ là một bệ nhỏ. Năm 1937, vua Bảo Đại hưng công xây dựng, tu bổ. “Tương truyền năm 1937, Vua Bảo Đại lấy vợ đã lâu nhưng không có con nên Nam Phương Hoàng Hậu đến cầu tự ở Đền Sòng và được Mẫu ban cho Hoàng Tử Bảo Long. Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã báo mộng cho Hoàng Hậu biết mộ của mình ở ngôi Miếu xứ cây đa Phủ Dầy. Để trả ơn đó Vua Bảo Đại đã cho dựng lăng để tạ ơn Mẫu Liễu Hạnh. Khu lăng Mẫu được xây hoàn toàn bằng đá xanh và 60 búp sen hồng”. Lăng Thánh Mẫu Liễu Hạnh Phủ Bóng – Nguyệt Du Cung Phủ Bóng còn gọi là Nguyệt Du Cung. Tương truyền sau khi đã về trời, vào những đêm trăng sáng Liễu Hạnh công chúa lại dẫn một đoàn tiên nữ xuống quây quần múa hát bên gốc cây đa. Dân làng thầm lặng dõi theo dần dần nhận ra đây là điềm linh thiêng, linh ứng mới bàn nhau lập miếu thờ dưới gốc cây đa nên thường gọi là đền Cây Đa Bóng hay Phủ Bóng. Phủ Bóng Di tích Phủ Dầy có giá trị rất cao về trình độ kiến trúc nghệ thuật cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Đến với Phủ Dày vừa để thưởng ngoạn cảnh đẹp, vừa là dịp Mẫu ban cho điều lành và sự may mắn. Đăng bởi Trân ĐặngTừ khoá Thăm Phủ Dầy – Di tích lịch sử nổi tiếng và linh thiêng bậc nhất vùng đất Thành Nam

phủ dầy nam định ở đâu