Có nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa ao làm tòa sen của Phật Quan Âm ở trên cột, giống như đã trông thấy trong mộng, cho các nhà sư đi diễu chung quanh tụng kinh cầu cho vua sống lâu, vì thế gọi là chùa Diên Hựu". Sách Khâm định Việt sử thông
Tài liệu Đề tài Nghiên cứu những vướng mắc trong quản lý thực hiện các dự án xây dựng ở Công ty TNHH Nhà nước một thành viên kinh doanh dịch vụ nhà Hà Nội: MỤC LỤC DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 60 LỜI MỞ ĐẦU Cùng với xu thế vận động của cả nước, ngành Công nghiệp xây dựng Việt nam đã có những
Các cấp ủy, chính quyền nhận thức sâu sắc, quán triệt và thực hiện tốt các chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về hội nhập quốc tế, về xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, như Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, của Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII
Câu 10: Văn Miếu được xây dựng ở Thăng Long vào năm nào? Để thờ ai? Năm 1075 thờ Chu Văn An. Năm 1010 thờ Lý Công Uẩn. Năm 1070 thờ Khổng Tử. Năm 1072 thờ Mạnh Tử. Câu 11: Nhà Lý được thành lập vào thời gian nào? 1008; 1009; 1010; 1005; Câu 12: Điền từ còn thiếu vào chỗ
Cách mạng công nghiệp 4.0 để phát triển du lịch hướng tới xây dựng thành phố thông minh tại Việt Nam - Nguồn lực tài chính: Nguồn lực tài chính để thực hiện là một vấn đề rất quan trọng. Bạn đang xem nội dung tài liệu Cách mạng công nghiệp 4.0 để phát triển du
Fast Money. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một khu di tích lịch sử mang ý nghĩa biểu trưng cho tiến trình phát triển văn hóa của Việt Nam, là một bằng chứng về sự đóng góp của Việt Nam vào nền văn minh Nho giáo trong khu vực và nền văn hóa mang ý nghĩa nhân văn của Tòan Thế giới. Văn Miếu và Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thủ đô Hà Nội. Thời Nhà Lý Văn Miếu – Quốc Tử Giám, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long là tổ hợp gồm hai di tích Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An – người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam; Quốc Tử Giám – Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam. Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070 dưới thời Vua Lý Thánh Tông 1054-1072, có tạc tượng Chu Công, Khổng Tử cùng tứ phối là Nhan Tử, Tăng Tử, Tư Tử, Mạnh Tử và hình vẽ các hiền nho để thờ cúng, bốn mùa tế lễ. Năm 1076, Vua Lý Nhân Tông cho xây nhà Quốc Tử Giám kề sau Văn Miếu. Khi mới xây dựng, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý nên gọi tên là Quốc Tử. Từ năm 1253, Vua Trần Thái Tông cho mở rộng Quốc Tử Giám và thu nhận cả con cái thường dân có học lực xuất sắc. Đời vua Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử Giám Tư nghiệp Hiệu trưởng và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Đến năm 1370 Chu Văn An qua đời được Vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử. Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Vua Lê Thánh Tông cho dựng bia Tiến sĩ của những người đỗ Tiến sĩ từ khóa thi năm 1442 trở đi. Nay chỉ còn lại 82 tấm bia tiến sĩ. Bia tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được Unesco công nhận là Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức Thế giới vào ngày 9/3/2010. Sau Mộc bản Triều Nguyễn, Bia Tiến sĩ Văn Miếu là di sản tư liệu thứ 2 của Việt Nam được đưa vào danh mục Di sản tư liệu thế giới. Bia tiến sĩ Năm 1762, vua Lê Hiển Tông cho sửa lại Quốc Tử giám làm Cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 Quốc Tử Giám được đổi thành nhà Thái học. Đến đầu thời Nguyễn, năm 1802, Gia Long bãi bỏ trường Quốc Tử Giám ở Hà Nội, đổi nhà Thái Học làm nhà Khải Thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử và xây dựng Khuê Văn Các ở trước Văn Miếu. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử. Tuy nhiên, quy mô và kiến trúc ở đây đơn giản hơn. Bốn mặt đều là phố, cổng chính phía Nam là phố Quốc Tử Giám, phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây là phố Tôn Đức Thắng, phía Đông là phố Văn Miếu. Quần thể kiến trúc này nằm trên diện thích rộng m2. Trước mặt Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ của nho sĩ kinh thành xưa. Cổng chính Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa. Văn Miếu có tường bao quanh xây bằng gạch. Bên trong cũng có những bức tường ngăn ra làm 5 khu, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng qua lại nhau. Khu thứ nhất bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn. Khu thứ hai từ Đại Trung Môn vào đến Khuê Văn các. Khuê Văn các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông 85cm x 85cm bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời tỏa tia sáng. Hai bên phải trái Khuê Văn các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sĩ. Khuê Văn Các Khuê Văn các ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội. Khu thứ ba gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh nghĩa là giếng soi ánh mặt trời, có hình vuông. Hai bên hồ là khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng rùa đá. Hiện còn 82 tấm bia về các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779. Đó là những di vật quý nhất của khu di tích. Khu thứ tư là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Tòa nhà ngoài là Bái đường, Tòa trong là Thượng cung. Khu thứ năm là khu Thái Học. Trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ thân phụ, thân mẫu của Khổng Tử, nhưng đã bị phá hủy. Khu nhà Thái Học mới được thành phố Hà Nội xây dựng lại năm 1999. Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là di tích quốc gia đặc biệt Ngày nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến “cầu may” trước mỗi kỳ thi.
Giới thiệu về Văn Miếu Quốc Tử Giám ngắn gọnGiới thiệu về Văn Miếu Quốc Tử Giám1. Tại sao gọi là Văn Miếu Quốc Tử Giám?2. Giới thiệu về di tích lịch sử Văn Miếu Quốc Tử GiámLịch sử Văn Miếu Quốc Tử GiámKiến trúc của Văn Miếu3 khu thường được tham quan khi đến Văn Miếu Quốc Tử Giám3. Thuyết minh về Văn miếu Quốc Tử GiámVăn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích lịch sử nổi tiếng hàng đầu của Việt Nam. Được biết đến là trường đại học cổ xưa nhất của người Việt, ngày nay Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một trong số những địa chỉ tham quan yêu thích của du khách trong và ngoài nước. Vậy tại sao gọi là Văn Miếu Quốc Tử Giám? Mời các bạn hãy cùng Hoatieu tham khảo nội dung sau đây để tìm hiểu thêm nhiều thông tin bổ ích về Văn Miếu Quốc Tử Giám minh về chiếc khẩu trang ngắn gọnTop 5 bài phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc1. Tại sao gọi là Văn Miếu Quốc Tử Giám?Văn Miếu – Quốc Tử Giám ra đời vào năm 1070 tại vị trí như hiện nay. Mặc dù còn có ý kiến khác nhau về tên gọi “Văn Miếu” nhưng đều thống nhất rằng Văn Miếu là nơi thờ Khổng Tử cùng các tiên hiền Nho học, đồng thời là nơi học tập của Hoàng Thái tử. Được biết ở Trung Quốc từ thời Hậu Tề 479 – 502 các trường trong phủ, huyện đều lập miếu thờ Khổng Tử và Nhan Tử theo bộ từ điển Từ Nguyên. Như vậy ngay từ thế kỷ thứ V Trung Quốc đã có lệ lập Văn Miếu ở trường học. Ở Việt Nam vào đầu thể kỷ XI Nho Giáo chưa phát triển, nhưng điều đó đã khẳng định nhà Lý chọn Nho Giáo là hệ tư tưởng chính. Điều này cũng phù hợp với quy chế dạy và học ở Trung Quốc – quốc gia khởi thuỷ của nền Nho học. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm Bính Thìn, niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 1 1076, “chọn viên quan văn chức, người nào biết chữ cho vào Quốc Tử Giám”, đây là lần đầu tiên tên gọi “Quốc Tử Giám” xuất hiện trong chính sử, do đó có thể hiểu rằng năm 1076 là năm ra đời của Quốc Tử gọi Quốc Tử Giám lần đầu tiên xuất hiện trong chính sử là vào năm 1076, đây là nơi học tập của con em trong hoàng gia và những văn thần có học. Lúc đầu quy mô còn nhỏ, chỉ dành riêng cho Hoàng Thái tử, sau này được mở rộng cả về quy mô và đối tượng theo học, với mục đích đào tạo quan lại cho triều đình. Tên gọi Quốc Tử Giám cũng được được chính thức gọi từ lúc này và cho đến nay tên gọi đó vẫn được duy trì, tuy nhiên trong một số giai đoạn lich sử đã được gọi với tên khác Giới thiệu về di tích lịch sử Văn Miếu Quốc Tử GiámLịch sử Văn Miếu Quốc Tử GiámVăn Miếu được xây dựng năm 1070 dưới thời cai trị của vua Lý Thánh Tông. Nơi thờ các vị khổng tử nổi tiếng của việt nam như Khổng Tử, Chu Công và Tứ vua Lý Nhân Tông cho lập thêm Quốc Tử Giám bên cạnh là trường đại học dành riêng cho con vua và các gia đình quý tộc đến đây để học tập . Và được đổi tên thành quốc học viện trong thời vua Trần Thái Tông cai trị. Cho phép con cái thường dân những người có tài văn chương xuất sắc đến đây học này sau khi vua Lê Thánh Tông cai trị thì bắt đầu xây dựng bia của những tiến sĩ thi đỗ. Và tới thời vua Nguyễn, Quốc Tử Giám được lập Huế. Cho người sửa chữa lại Văn miếu Thăng Long đổi tên thành Văn Miếu của trấn Bắc Thành. Cuối cùng đổi tên thành văn miếu Hà Nội đến ngày hôm nay. Đó là vài nét sơ lược về lịch sử văn miếu quốc tử trúc của Văn MiếuDi tích lịch sử văn miếu có diện tích rộng 54331 m2, gồm các công trình thiết kế kiến trúc lớn, nhỏ khác nhau. Bên ngoài khuôn viên là những bức gạch vồ. Di tích này trải qua nhiều lần tu sửa vì có dấu hiệu xuống cấp do thời gian. Văn Miếu Quốc Tử Giám gồm Hồ Văn, Văn Miếu môn, Đại Trung môn, Khuê Văn Các, giếng Thiên Quang, bia tiến sĩ, Đại Thành môn, nhà Thái trước văn miếu có một hồ gọi là hồ Văn Chương ngày xưa chúng ta có thể trên lầu và ngắm cảnh dưới hồ. Cổng chính gồm 4 trụ lớn, hai bên có bia ghi trên đó là chữ “Hạ Mã”. Bản tên của Văn Miếu ghi bằng chữ Hán cổ xưa có tên là “Văn Miếu Môn”Được chia làm 5 khu vực khác nhau, mỗi khu vực đều cách nhau bởi những tường ngăn cách lớn và cổng đi lại nối liền với nhau cho tiện việc di chuyển qua các khu khác khu thường được tham quan khi đến Văn Miếu Quốc Tử Giám1. Khu thứ nhấtĐó là cổng chính của văn miếu từ đây chúng ta sẽ đi đến được Đại Trung Khu thứ haiKhi vào Đại Trung Môn thì chúng ta sẽ tới Khuê Văn Các. Khuê Văn Các là công trình kiến trúc có tỉ lệ kiến trúc khá hài hòa và thu hút người tham quan khi đến đây. Ngôi nhà gồm 4 trụ chính phía trên là gác lửng ngày xưa là nơi để dạy học được làm hoàn toàn bằng gỗ rất tinh xảo và cầu trái trái Khuê Văn các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu bia tiến sĩ những người đỗ đạt chức vị lớn ở các kỳ thi cử. Khuê Văn các ở Văn Miếu được coi là bộ mặt của Hà Khu thứ baHồ nước Thiên Quang Tỉnh hồ có hình vuông rất đẹp nó còn có tên khác là giếng soi ánh mặt trời. Dọc hai bên hồ là nhà bia các tiến sĩ, mỗi tấm bia được làm bằng đá được đặt trên mỗi con rùa và khắc tên tiến sĩ đã đậu các chức vị như là Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến từ năm 1442 – 1779 hiện này còn 82 tấm bia. Đó là những điểm thu hút khách đến thăm quan nhất và đó cũng là những di tích lịch sử quý Khu thứ tưKhu trung tâm văn miếu có hai công trình lớn và được thiết kế kỳ công nhất nằm song song và nối tiếp bên ngoài gọi là Bái đường, Tòa trong gọi là Thượng cung. Đây là khu vực thờ Khổng Tử và Tứ Khu thứ nămĐây là khu nhà Thái Học. Thời nhà Nguyễn đã bị bãi bỏ và trường Quốc Tử Giám cũng đóng cửa. Nơi này đổi tên thành Khải thánh là nơi thờ thân sinh phụ mẫu của Khổng thời gian kháng chiến chống Pháp khu nhà này bị phá hủy bởi chiến tranh. Được cải tạo và xây dựng lại năm 1999. Trong khu thứ năm còn là nơi thờ của các vị vua gồm vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn Thuyết minh về Văn miếu Quốc Tử GiámVăn Miếu Quốc Tử Giám tọa lạc giữa thủ đô Hà Nội, được xem là trường đại học đầu tiên tại Việt Nam. Từ những năm đầu tiên, ngôi trường này đã tụ họp rất nhiều người tài, đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay Văn Miếu vẫn là điểm đến của nhiều du khách khi ghé thăm Hà Nội bởi kiến trúc độc đáo, ấn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua bao nhiêu biến động, thăng trầm của lịch sử nhưng nó vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của con người Hà Nội. Đó là giá trị tinh thần cao đẹp được gìn giữ từ bao nhiêu năm. Văn Miếu nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long thời Lí. Văn Miếu được được vào hoạt động trong khoảng thời gian từ 1076 cho đến 1820, đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất Miếu bao gồm hai di tích chính là Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy đầu tiên của trường học. Trải qua bao nhiêu năm nhưng Văn Miếu vẫn giữ được những nét đẹp cổ Miếu – Quốc Tử Giám được nhà Lý xây dựng vào thế kỉ 11, với mục đích chính là dạy học cho các hoàng tử và những người tài trong thiên hạ. Đây còn là nơi thờ các danh nhân có công trong nền giáo dục nước nhà, tổ chức các kì thi của quốc gia, cao nhất là kì thi tiến Miếu – Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam thành Thăng Long xưa. Nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Ở vị trí đắc địa, bốn mặt đều là những con phố đông vui, nhưng không vì thế mà Văn Miếu mất đi vẻ yên tĩnh, cổ kính vốn có. Quần thể kiến trúc này nằm trên diện tích 54331 m² bao gồm hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Văn nằm ở đối diện cổng chính Quốc Tử Giám, đã được trùng tu nhiều năm nay. Đây là một hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát, giữa hồ có gò Kim Châu. Cảnh trí rất yên bình, nên thơ giúp cho các sĩ tử giải tỏa bớt căng thẳng trước giờ lịch sửVăn Miếu được xây dựng từ "tháng 8 năm Canh Tuất 1070 tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông, đắp tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối vẽ tranh tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học.".Bia tiến sĩ khoa thi nho học năm Nhâm Tuất 1442 Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử giám, có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý nên gọi tên là Quốc Tử. Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng năm 1253, vua Trần Thái Tông cho mở rộng Quốc Tử giám và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp hiệu trưởng và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ của những người thi đỗ tiến sĩ từ khóa thi 1442 trở 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 đổi thành nhà Thái nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 đổi thành nhà Thái nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lạiVề kiến trúcQuần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia "Hạ Mã", xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh. Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ "Văn Miếu Môn" kiểu chữ Hán cổ Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhauKhu thứ nhất bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài thứ hai từ Đại Trung Môn vào đến khuê Văn Các do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805. Khuê Văn Các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông 85cm x 85cm bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời toả tia sáng. Hình tượng Khuê Văn Các mang tất cả những tinh tú của bầu trời tỏa xuống trái đất và trái đất nơi đây được tượng trưng hình vuông của giếng Thiên Quang. Công trình mang vẻ đẹp sao Khuê, ngôi sao sáng tượng trưng cho văn học. Đây là nơi thường được dùng làm nơi thưởng thức các sáng tác văn thơ từ cổ xưa tới nay. Hai bên phải trái Khuê Văn Các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến thứ ba gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh nghĩa là giếng soi ánh mặt trời, có hình vuông. Hai bên hồ là 2 khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng một con rùa. Hiện còn 82 tấm bia tiến sĩ về các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779, chia đều cho hai khu tả và hữu. Trong đó, 12 bia đầu tiên cho các khoa thi những năm 1442-1514 được dựng vào thời Lê sơ, 2 bia cho các khoa 1518, 1529 được dựng vào triều nhà Mạc, còn 68 bia cuối cùng các khoa thi những năm 1554-1779 được dựng vào thời Lê trung hưng. Mỗi khu nhà bia gồm có 1 Bi đình nằm ở chính giữa và 4 nhà bia mỗi nhà 10 bia xếp thành hai hàng, nằm hai bên Bi đình. Bi đình khu bên trái Thiên Quang Tỉnh chứa bia tiến sĩ năm 1442, còn Bi đình khu bên phải chứa bia tiến sĩ năm thứ tư là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Tòa ngoài nhà là Bái đường, tòa trong là Thượng thứ năm là khu Thái Học, trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử, nhưng đã bị phá hủy. Khu nhà Thái Học mới được xây dựng lại năm Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tứ phối Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử. Ở điện thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa. Đây là hình tượng rất đặc trưng tại các đền, chùa, lăng tẩm, miếu mạo ở Việt nam. Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa trong nhiều ngôi chùa, miếu…, hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hòa giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm – dương. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý và thanh cao. Theo truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng trưng cho con vật sống trên cạn, biết bay. Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả một vùng rộng lớn, hạc không thể sống dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến vùng có nước. Điều này nói lên lòng chung thuỷ và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Lớp 8 của
Bạn đang xem Nhà Lý xây dựng Văn Miếu Quốc Tử Giám để? Bạn Đang Xem 6 nhà lý xây dựng văn miếu quốc tử giám để hay nhất tại Câu hỏi Nhà Lý xây dựng Văn Miếu để? A. Là nơi họp hành của các quan B. Tiêu khiển C. Dạy dỗ con cái vua quan, tổ chức các kỳ thi. D. Đón tiếp các đại sứ nước ngoài Xem Thêm Top 7 điều chế nahco3 từ na2co3 tốt nhấtĐáp án C đúng. Nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám để dạy học cho con vua, quan lại, tổ chức thi cử, năm 1070, nhà Lý cho xây dựng văn miếu thờ Khổng Tử và là nơi dạy học cho con vua, Năm 1076, Quốc Tử Giám được mở để con em quý tộc tới học và tổ chức một số kỳ thi. Giảng giải lý do chọn phương án C Năm 1005, Lê Hoàn mất. Lê Long Đĩnh lên ngôi. Năm 1009, Lê Long Đĩnh mất. Lý Công Uẩn lên ngôi vua, nhà Lý được thành lập. Năm 1010, Lý Công Uẩn đặt niên hiệu là Thuận Thiên, dời đô ra Đại La, đổi tên là Thăng Long. Thời Lý, Thăng Long vừa là kinh đô của nước Đại Việt phồn vinh, vừa là kinh thành có quy mô lớn trong khu vực và toàn cầu. Năm 1054, nhà Lý đổi quốc hiệu là Đại Việt, thiết lập cơ chế quân chủ tuyệt đối. Từ đây, nhà Lý cũng tăng nhanh công cuộc xây dựng quốc gia ko chỉ về kinh tế, xã hội nhưng mà còn về văn hóa, giáo dục. Văn học Trung Quốc bước đầu tăng trưởng. Đạo Phật được tôn sùng, xây dựng nhiều chùa tháp, dịch kinh Phật, biên soạn sách Phật học Xem Thêm 4 vẽ đầu báo tường tốt nhấtNghệ thuật trình diễn dân gian tăng trưởng hát chèo, múa rối nước,… Các trò chơi dân gian, lễ hội dân gian nổi tiếng. Kiến trúc tăng trưởng, nhiều công trình quy mô lớn và lạ mắt được xây dựng Hoàng thành Thăng Long, tháp Chương Sơn Nam Định, .. Điêu khắc mức độ tinh xảo, trang nhã, hoa văn rồng là hình tượng nghệ thuật lạ mắt và rộng rãi thời Lý. Thời Lý, chính sách khuyến học được trình bày rõ nét nhất trong việc xây dựng Văn Miếu ở kinh thành Thăng Long vào năm 1070 làm nơi thờ tự các bậc thánh hiền, nhà Nho và cho các Hoàng tử học hành. Năm 1075, vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Minh Kính Sắc trước nhất trong lịch sử thi cử Việt Nam. Một năm sau, ông lại mở Quốc Tử Giám để dạy học cho con em quý tộc. Sau đó dưới thời Trần, Quốc Tử Giám dần được mở rộng quy mô, có cả những học trò ưu tú bình dân tới học. Quốc Tử Giám là trường học trước nhất của Đại Việt. Có thể nói, vào thời Lý, giáo dục và thi cử được quan tâm, nhưng cơ chế thi cử chưa được tổ chức, lúc nhà nước có nhu cầu thì mở khoa thi. Bạn thấy bài viết Nhà Lý xây dựng Văn Miếu Quốc Tử Giám để? có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Nhà Lý xây dựng Văn Miếu Quốc Tử Giám để? bên dưới để có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo Phân mục Giáo dục Nhà Lý xây dựng Văn Miếu Quốc Tử Giám để Top 6 nhà lý xây dựng văn miếu quốc tử giám để tổng hợp bởi Tin Tức Giáo Dục Học Tập Tiny Nhà Lý xây dựng Văn Miếu Quốc Tử Giám để? Tác giả Ngày đăng 10/29/2022 Đánh giá 862 vote Tóm tắt Nhà Lý xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám để dạy học cho con vua, quan, tổ chức các kì thi, năm 1070, nhà Lý xây dựng văn miếu thờ Khổng Tử và là … Bài 17. Ôn tập chương II và chương III Tác giả Ngày đăng 06/03/2022 Đánh giá 364 vote Tóm tắt Nhà lý xây dựng văn miếu quốc tự giám mục đích là chế độ phong kiến của đất nước chúng ta ngày xưa chiụ ảnh hưởng trực tiếp của phong kiếnTrung Quốc từ chính … Nhà Lý xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám để làm gì? Tác giả Ngày đăng 06/17/2022 Đánh giá 279 vote Tóm tắt Năm 1070, nhà Lý xây dựng văn miếu thờ Khổng Tử và là nơi dạy học cho con vua. Năm 1076, Quốc Tử Giám được mở cho con em qúy tộc đến học và … Nhà Lý xây dựng Quốc Tử Giám nhằm mục đích gì? Tác giả Ngày đăng 07/01/2022 Đánh giá 253 vote Tóm tắt Nhà Lý xây dựng Quốc Tử Giám nhằm mục đích gì? A. Là nơi gặp gỡ của quan lại. B. Vui chơi giải trí. C. Dạy học cho con vua, quan, … Việc xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám và mở khoa thi đầu tiên có Tác giả Ngày đăng 09/17/2022 Đánh giá 275 vote Tóm tắt Với giải Câu hỏi 2 trang 57 Lịch sử lớp 7 Kết nối tri thức chi tiết trong Bài 11 Nhà Lý xây dựng và phát triển nước 1009-1225 giúp học … Khớp với kết quả tìm kiếm Nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám để dạy học cho con vua, quan lại, tổ chức thi cử, năm 1070, nhà Lý cho xây dựng văn miếu thờ Khổng Tử và là nơi dạy học cho con vua, Năm 1076, Quốc Tử Giám được mở để con em quý tộc tới học và tổ chức một … Nhà Lý xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám để làm gì? Tác giả Ngày đăng 11/14/2022 Đánh giá 335 vote Tóm tắt + Năm 1070, nhà Lý xây dựng văn miếu thờ Khổng Tử và là nơi dạy học cho con vua. + Năm 1076, Quốc Tử Giám được mở cho con em qúy tộc đến học và tổ chức một số … Khớp với kết quả tìm kiếm Nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám để dạy học cho con vua, quan lại, tổ chức thi cử, năm 1070, nhà Lý cho xây dựng văn miếu thờ Khổng Tử và là nơi dạy học cho con vua, Năm 1076, Quốc Tử Giám được mở để con em quý tộc tới học và tổ chức một …
Câu hỏi Nhà Lý xây dụng Văn Miếu - Quốc Tử Giám đê làm gì? Giúp mình với mọi người Nhà Lý xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám để làm gì? A. Là nơi gặp gỡ của quan lại. B. Vui chơi giải trí. C. Dạy học cho con vua, quan, tổ chức các kì thi. D. Đón tiếp sứ thần nước ngoài. Xem chi tiết Nhà lý xây dựng văn miếu quốc tử giám để làm j Xem chi tiết khanh 8 tháng 12 2021 lúc 836 Việc xây dựng Văn Miếu -Quốc Tử Giám có ý nghĩa gì?giúp mình với Xem chi tiết Nhà Lý xây dựng Văn miếu – Quốc Tử Giám để làm nơi *Hội họp các quan lạiĐón các sứ giả nước ngoàiVui chơi giải tríDạy học cho con vua, quan, mở trường thi Xem chi tiết 1, tình hình kinh tế , xã hội nhà Trần nửa cuối thế kỉ XIV như thế nào ?2, nhà lí xây Văn Miếu Quốc Tử Giám để là gì ? Xem chi tiết Câu 8. Nhà Lý xây dựng Văn Miếu- Quốc Tử Giám đểA. Thờ Phật Tổ. B. Nơi dạy cho các con em quí tộc C. Thờ Lão Tử D. Lễ tế trời đấtCâu 9. Nhà Lý mở khoa thi đầu tiên để tuyển chọn quan lại vào năm nào?A. Năm 1075 B. Năm 1076 C. Năm 1077 D. Năm 1078Câu 10 Nhà Trần thành lập thời gian nào?A. Năm 1226 B. Năm 1227 C. Năm 1228 D. Năm 1229Đọc tiếp Xem chi tiết Việc xây dựng Văn miếu có ý nghĩa gì? Giúp mình với mọi người Xem chi tiết Trường Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng năm nào Xem chi tiết Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng năm 1070 hay 1803 Xem chi tiết
26 Nov 2022 - 18 min readNhắc tới Hà Nội, thủ đô của Việt Nam, các bạn sẽ nghĩ ngay tới một Hà Nội cổ kính, thơ mộng với Hồ Gươm, Lăng Bác, phố cổ, Hồ Tây thơ mộng… hay những ngôi chùa linh thiêng có lịch sử hàng trăm năm tuổi. Cùng với đó, Hà Nội cũng có một địa điểm rất nổi tiếng, giàu bản sắc văn hóa. Nơi đây không chỉ là di tích lịch sử mà còn là nơi được rất nhiều học sinh, sinh viên từ khắp nơi đến cầu thi cử, đỗ đạt. Đó chính là Văn Miếu Quốc Tử Giám – ngôi trường đại học đầu tiên của Việt sử Văn Miếu Quốc Tử GiámTừ năm 1070, Văn Miếu được xây dựng vào năm thần vũ thứ hai đời vua Lý Thánh Tông. Năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám nằm bên cạnh Văn Miếu. Trường đại học đầu tiên ở Việt Nam ra đời. Thời kì đầu, trường là nơi chỉ dành riêng cho con vua và con của các bậc quyền quý đại thần theo học nên có tên gọi là Quốc Tử. Người đầu tiên theo học tại đây là hoàng tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông với Nguyên Phi Ỷ Lan. Văn Miếu được vua Lý Anh Tông cho sửa lại vào năm 1156 và chỉ thờ Khổng 1253, Vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học Viện, mở rộng và cho phép thu nhận cả con của các nhà thường dân học hành xuất Văn An được cử làm Quốc Tử Giám Tư nghiệp hiệu trưởng vào đời vua Trần Minh Tông và là thầy giảng dạy trực tiếp cho các hoàng tử. Ông mất năm 1370, sau đó vua Trần Nghệ Tông cho thờ ông ở Văn Miếu bên cạnh nơi thờ Khổng Giáo rất thịnh hành vào thời Hậu Lê. Vua Lê Thánh Tông đã cho dựng các tấm bia đá của những người thi đỗ tiến sĩ từ khoa thi năm 1442. Mỗi tấm bia đều được đặt trên lưng rùa. Đời vua Lê Tháng Tông 1460-1497, nhà Lê đều đặn 3 năm một lần tổ chức các khoa thi, tổng cộng có 12 khoa khoa thi hoàn thành xong không phải lúc nào cũng được khắc bia ngay. Có những tấm bia bị hư hỏng, mất mát theo thời gian. Trong lịch sử cũng đá có rất nhiều đợt trùng tu, dựng lại bia lớn, điển hình như năm 1653 – năm Thịnh Đức thứ nhất hay năm 1717 – năm Vĩnh Thịnh thứ 13. Bia vẫn được khắc đều đặn vào cuối Triều Lê, thời Cảnh năm 1802, vua Gia Long đổi tên thành Văn Miếu Hà Nội. Vì vậy vào thời nhà Nguyễn, Văn Miếu chỉ còn là Văn Miếu của trấn Bắc dân Pháp đã nã đại bác vào năm 1947 làm đổ sập căn nhà, chỉ còn lại nền và hai cột đá, 4 nghiên đá. Toàn bộ khu Thái Học ngày nay với diện tích 1530m2 được xây dựng trên tổng diện tịc di chuyển tới Văn MiếuVăn Miếu có địa chỉ tại 58 Quốc Tử Giám, Đống Đa, Hà Nội và tọa lạc ngay giữa 4 con phố chính gồm phố Nguyễn Thái Học, Tôn Đức Thắng, Văn Miếu và Quốc Tử các bạn xuất phát từ Hồ Gươm, hãy đi theo phố Hàng Bông, đi thẳng sang đường Cửa Nam, Nguyễn Khuyến rồi tiếp tục rẽ trái vào đường Văn Miếu là đến. Các bạn cũng có thể đặt xe grab, taxi với giá vé rất linh hoạt vì Văn Miếu nằm rất gần với Hồ di chuyển bằng xe bus, các bạn hãy đi những tuyến sau sẽ có điểm dừng ngay gần khu vực này 02, 23, 38, 25, vé vào cửaHiện nay, khách du lịch vào tham quan Văn Miếu phải mua vé vào cổng. Giá vé dành cho người lớn là và vé trẻ em là là mức giá khá rẻ và áp dụng chung cho cả khách Việt Nam và khách nước gian mở cửaCó một lưu ý là Văn Miếu sẽ mở cửa theo mùa, giờ mở cửa không cố định.– Thời gian mở cửa theo ngày Từ thứ 2 đến thứ 6 Mở cửa từ 730 đến 1800;thứ Bảy, Chủ nhật Văn Miếu mở muộn hơn 30 phút tức 800 và đóng muộn hơn 3 tiếng 2100.– Thời gian mở cửa theo mùa Vào mùa hè từ 15/4 – 15/10, Văn Miếu sẽ mở cửa đón khách từ 730 và đóng lúc 1800. Mùa lạnh từ 16/10 – 14/4 năm sau, du khách có thể đến tham quan Văn Miếu từ 800 đến 18 trúc của Văn MiếuLê Quý Đôn đã miêu tả Văn Miếu thời nhà Lê trong cuốn Kiến văn tiểu lục rằng Cửa Đại Thành Nhà 3 gian 2 chái, lợp bằng ngói đồng, Tây Vũ và Đông vũ 2 dãy đều 7 gian, cửa nhỏ 1 gian phía sau, điện canh phục gồm 1 gian 2 chái, 2 gian nhà bếp, kho tế khí 3 gian 2 chái, cửa Thái học 3 gian, có tường ngang lợp bằng ngói đồng ngói ống, nhà bia phía đông và tây đều 12 gian, kho để ván khắc sách 4 gian, ngoại nghi môn 1 gian, xung quanh đắp tường, cửa hành mã ngoài tường ngang 3 gian, nhà Minh Luân 3 gian 2 chái, Cánh cửa nhỏ bên tả và bên hữu đều 1 gian và có tường ngang. nhà giảng dạy nằm ở phía đông và phía tây, có 2 dãy, mỗi dãy đều 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá nằm ở phía tây và phía đông đều ba dãy, mỗi dãy có 25 gian, mỗi gian ở 2 trúc của toàn bộ Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc của thời đầu nhà Nguyễn. Khuôn viên là bốn bức tường được xây bằng gạch nay, kiến trúc Văn Miếu được chia làm ba khu vực chính Văn Hồ, vườn Giám và cuối cùng là nội tự Văn Miếu mônPhía trước Văn Miếu môn gồm có tứ trụ nghi môn và hai tấm bia Hạ mã下馬 nằm ở hai bên, đó chính là mốc ranh giới chiều ngang ở phía trước mặt cổng. Thời xưa đã quy định rằng Dù là công hầu hay khanh tướng, dù cho đi bằng võng lọng hay xe ngựa, cứ hễ đi qua Văn Miếu đều phải xuống đi bộ từ tấm bia Hạ mã bên này cho tới tấm bia Hạ mã bên kia, sau đó mới được lên lại xe ngựa. Thế mới thấy rằng Văn Miếu có vị trí tôn nghiêm như thế trụ được xây dựng bằng gạch, ở hai trụ giữa được xây cao hơn và có hình hai con nghê chầu vào. Theo quan niệm tâm linh thì đây chính là vật linh thiêng có khả năng nhìn ra kẻ ác hay người thiện. Hai trụ phía ngoài được đắp nổi bốn con chim phượng chắp đuôi vào nhau. Trên tứ trụ có câu đối chữ Hán được tạm dịch làĐông, tây, nam, bắc cùng đạo này- Công, khanh, sĩ phu xuất thân từ đường nàyBa chữ Văn Miếu môn được khắc bằng tiếng HánVăn miếu môn có ý nghĩa là cổng tam quan phía ngoài. Cổng gồm có ba cửa, cửa ở giữa cao to và được xây 2 tầng. Tầng trên của cửa có ba chữ 文廟門 Văn miếu môn. Kiến trúc của Văn Miếu môn rất độc đáo. Nhìn bên ngoài cửa tam quan là ba kiến trúc riêng biệt. Cửa chính giữa thực chất được xây hai tầng, mặt bừng hình vuông, tầng dưới to, tầng trên nhỏ chồng lên tầng Trung mônKhông gian thứ nhất đi từ cổng chính Văn Miếu môn được gọi là khu Nhập đạo, đi theo đường thẳng tới cánh cổng thứ hau là Đại Trung môn. Bên trái ngang hàng với Đại Thành môn là Thành Đức môn, bên phải là Đạt Tài môn. Ngày nay, hai bên là không gian xanh của cây cối và thảm cỏ. Hai bên tả hữu của toàn bộ khu Văn Miếu, cùng với tường ngang của Văn Miếu môn tạo thành một khu hình gần vuông, tường vây khép kín ra vào bằng Văn Miếu môn. Có hai chiếc hồ hình chữ nhật nằm sát theo chiều dọc bên ngoài. Cảnh vật ở đây tạo một cảm giác thanh tịnh, trang Đại Trung môn có kiến trúc 3 gian, xây trên một nền gạch cao, mái lợp ngói mũi hài, gồm hai hàng cột hiên trước và sau, ơt giữa có một cột chống nóc. Một tấm biển nhỏ đề 3 chữ Đại Trung Văn CácBước qua Đại Trung môn, đi sâu vào phía bên trong, các bạn sẽ được chiêm ngưỡng môt biểu tượng của thủ đô Hà Nội, đó chính là Khuê Văn Văn Các – gác vẻ đẹp của sao Khuê là một lầu vuông gồm tám mái, bốn mái thượng và bốn mái hạ. Khuê Văn Các cao gần chin thước, được Tổng trấn Nguyễn Văn Thành triều nhà Nguyễn cho xây dựng vào năm 1805. Gác được dựng trên một nền vuông lát gạch Bát tràng cao cân xứng, mỗi bề có chiều dài 6,8m. Phải đi qua ba bậc thang đá mới bước lên được nền vuông này. Khuê Văn Các có kiến trúc rất hài hòa và độc đáo. Tầng dưới có 4 trụ gạch vuông, mỗi trụ dài 1m và trên mặt trụ đều được trạm chỗ hoa văn tinh xảo. Tầng trên có kiến trúc gỗ sơn son thếp vàng, trừ mái lợp và những phần góc mái được làm bằng chất liệu vôi cát hoặc đất nung có độ bền Khuê Văn – Biểu tượng của thủ đô Hà NộiCó hai khoảng trống được chừa lại trên sàn gỗ để bắc thang lên gác. Bốn cạnh sàn là diềm gỗ được trạm chổ tỉ mỉ, tinh vi. Bố góc sàn cũng được làm bằng gỗ. Bốn mặt tường của Khuê Văn Các được bịt ván gỗ, mỗi mặt có một cửa tròn có thanh gỗ chống tỏa ra bốn phía. Những thanh gỗ và cửa tượng trưng cho sao Khuê và tia sáng của sao. Sát mái phía trên cửa ngoài vào có treo một biển sơn son thếp vàng khắc ba chữ 奎文閣Khuê Văn Các. Trên mỗi mặt tường gỗ đều được chạm một câu đối chữ Hán. Cả bốn câu đối đều rất có ý Tiến sĩ, giếng Thiên QuangTại Văn Miếu, di tích có giá trị bậc nhất có lẽ là 82 tấm bia Tiến sĩ được dựng ở hai bên của giếng Thiên Quang. Mỗi bên có 41 tấm dựng thành hai hàng ngang, mặt bia quay về phía giếng. Mỗi vườn bia hai bên xây một tòa đình vuông, 4 mặt đều bỏ trống, có nền cao ở giữa, có bệ, cửa trông thẳng xuống giếng. Thời xưa, hàng năm vào xuân thu nhị kỳ, tại Văn Miếu đều làm lễ tế, soạn sửa lễ vật cúng bái các vị tiên nho của nước ta mà quý danh còn khắc trên bia đá. Trong 82 tấm bia, tấm sớm nhất được dựng vào năm 1484, tấm cuối cùng vào năm 1780. Có nhiều tấm bia nọ lắp vào rùa của tấm bia khác, nhiều tấm bị nứt vỡ phải hàn gắn cộng có 82 tấm bia Tiến sĩBia được đặt trên lưng rùaThiên Quang mang ý nghĩa là ánh sáng bầu trời. Người xây dựng đã đặt tên này cho giếng có ý nói là con người đều thu nhận được tinh túy của vũ trụ, tri thức soi sáng, tô đẹp nhân văn. Giếng có hình vuông, quanh giếng được xây hàng lan can cao ngang lưng. Người xưa quan niệm rằng, giếng hình vuông tượng trưng cho đát, cửa tròn Khuê Văn Các tượng trưng cho trời. Tinh hoa của cả đất trời đều tập trung về những năm thực dân Pháp xâm chiếm Hà Nội, hai vườn bia có lúc hoang tàn, cỏ mọc cao quá đầu người. Ngày nay, hai nhà bia đã được tu sửa lại theo mẫu nhà bia cuối cùng thời vua Tự Thành mônBước qua cửa Đại Thành, các bạn sẽ bước vào không gian thứ ba, là khu vực chính của Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Cửa Đại Thành có kiến trúc 3 gian cùng với hai hàng cột hiên trước và sau, một hàng cột ở giữa. Trên giáp nóc chính giữa có treo một bức hoành khắc 3 chữ 大成門 Đại thành môn.Cánh Cửa Đại Thành là nơi mở đầu cho khu vực của những nơi thờ Khổng Tử, Chu Công, Thất Thập nhị hiền… Đây cũng chính là nơi giảng dạy của trường giám ngày xưa. Đại Thành là một cái tên mang đầy ý nghĩa – cửa của sự thành đạt lớn của Đại Thành môn rất rộng được lát gạch Bát Tràng. Hai bên là Tả vu và Hữu vu, trước mặt là tòa Đại Bái Đường trang nghiêm, rộng rãi và trải dài suốt chiều rộng của sân. Phía sau Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện nằm ở phía sau có 9 gian, 3 phía xây tường, là nơi kín đáo nên không gian tối hơn Đại Bái. Đây cũng là ý đồ của công trình sư nhằm tạo cho Thượng Điện một không khí trang nghiêm, u tịch. Thượng Điện thờ vị tổ đạo Nho. Có một cái khám và ngai lớn ở chính giữa để trên một bệ xây, trên là bài vị Chí thánh tiên sư Khổng Tử. Những gian khác cũng có bệ xây và cũng có khám, có ngai và bài vị. Bên trái thờ Tăng Tử và Mạnh Tử, bên phải thờ Nhan Tử và Tử Tư. Cả bốn vị đều có tượng gỗ sơn son thếp vàng rất uy nghi lễ đón rước tiến sĩ về làng đươc tái hiện lạiĐền Khải ThánhĐền Khải Thánh nằm ở phía sau cùng của Văn Miếu. Để đi từ Đại Thành môn, các bạn có thể đi theo hai con đường lát gạch phía Tả Vu và Hữu vu, hoặc đi từ sau lưng Thượng Điện qua cửa Tam mẹ Khổng Tử là Thúc Lương Ngột và Nhan Thị được thờ tại đền Khải Thánh. Nửa phần diện tích của khu là phía sân trước, sân bị một con đường lát gạch ngăn đôi dẫn từ tam quan lên chính giữa điện trên của đền nhìn xuống lầu chuôngKiến trúc của đền Khải Thánh khá sơ sài nhưng vẫn có Tả vu, Hữu vu và điện thờ ở giữa. Xưa đền Khải Thánh vốn là Quốc Tử Giám hay còn được gọi là nhà Thái Học, nơi rèn luyện nhân tài cho nhiều triều đại. Theo như văn tịch thì khu Khải Thánh xưa có 150 gian phòng dành cho giám sinh, hay còn gọi là khu cư xá. Thực dân Pháp đã bắn đại bác phá hủy toàn bộ khu giám sinh vào năm 1946, không còn sót lại một kiến trúc phong của nhà vua cho Tiến sĩ được lưu giữ tại đềnNgày nay hoàn toàn là kiến trúc mới. Toàn bộ mái của đền được lớp hai lớp ngói lót. Các cột giữa nhà và chân đá tảng đặt một tấm chì dày 1,5mm để chống ẩm từ dưới lên. Nền sân được lát gạch có kích thước 30x30x4cm. Xung quanh đều được bó vỉa bằng đá xanh. Quy mô của khu Thái Học mới hiện nay rất bề thế, trang nghiêm và hài hòa với kiến trúc chung của Văn Miếu. Hiện có rất nhiều những cổ vật con đang được lưu giữ tại văn bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất năm 1442Ngày nay, Văn Miếu – Quốc Tử Giám không chỉ là một địa điểm du lịch mà còn là một nơi để rất nhiều người dân Việt Nam tìm hiểu về cội nguồn, nhớ ơn các bậc hiền tài trong lịch sử đã tạo nên một phần đất nước hiện nay. Hãy một lần đến với Văn Miếu - Quốc Tử Giám hiểu rõ hơn về biểu tượng của tinh hoa giáo dục, nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt Nam các bạn nhé!Tác giả Trần Thị Như Quỳnh*Bài viết tham gia chương trình Traveloka GolocalTraveloka Golocal là chương trình viết blog giới thiệu những địa điểm đẹp trên khắp đất nước Việt Nam, thuộc khuôn khổ chương trình Traveloka Go & Share. Đây là cơ hội tuyệt vời để quảng bá du lịch địa phương đến mọi người. Với mỗi bài viết đạt yêu cầu bạn sẽ nhận ngay VND và cơ hội làm Cộng tác viên với Traveloka. Thông tin chi tiết về chương trình xem tại
nhà lý xây dựng văn miếu quốc tử giám để